Bản án 73/2021/HS-ST ngày 24/05/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 73/2021/HS-ST NGÀY 24/05/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 24 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 73/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 89/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Lê Văn N, sinh năm 1988 tại Sóc Trăng; thường trú: Ấp Th, xã T, huyện Tr, tỉnh Sóc Trăng; tạm trú: Nhà trọ Dương Xuân B thuộc tổ 1, khu phố 6, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn S, sinh năm 1966 và bà Trần Thị T, sinh năm 1966; tiền án, tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 25/11/2020 đến ngày 04/12/2020 được áp dụng biện pháp cấm đi khởi nơi cư trú cho đến nay; có mặt.

2. Trần Thị T (tên gọi khác: D), sinh năm 1990 tại Sóc Trăng; thường trú: Ấp N, xã T, huyện A, tỉnh Kiên Giang; tạm trú: Nhà trọ Đào Quốc T thuộc tổ 5, khu phố 5, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H (đã chết) và bà Trần Thị A, sinh năm 1950; có chồng tên Châu Thanh B, sinh năm 1988 và có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 25/11/2020 đến ngày 04/12/2020 được áp dụng biện pháp cấm đi khởi nơi cư trú cho đến nay; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Văn N và Trần Thị T có mối quan hệ quen biết với nhau và từng ở chung khu nhà trọ tại khu phố 6, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương.

Khong đầu tháng 10 năm 2020, Lê Văn N bắt đầu nảy sinh ý định nhận ghi số đề rồi chuyển cho đối tượng tên L và Đ (không rõ nhân thân) là những người từng đi chơi đá gà cùng N để hưởng phần trăm. Cùng thời điểm này, T ở chung khu nhà trọ nên biết được việc N nhận ghi số đề, nên đề nghị tham gia cùng. Trong thời gian từ tháng 10/2020 đến ngày 22/11/2020, N nhiều lần nhận ghi số đề cho các đối tượng đánh bạc và nhận phơi ghi đề do T chuyển đến rồi chuyển các phơi đề này cho L và Đ. Sau khi có kết quả và thanh toán xong tiền, N và T đã tiêu hủy các các phơi đề đánh từ tháng 10/2020 đến ngày 22/11/2020.

Đến ngày 23/11/2020, N tiếp tục nhận ghi số đề cho các đối tượng đánh bạc và nhận phơi đề do T chuyển đến thông qua tin nhắn điện thoại. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, khi N đang đến chơi tại tổ 2, khu phố 6, phường U thì bị lực lượng Công an phường U phát hiện có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra hành chính, lúc này, N ném 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu trắng gắn sim số 0383.192.024 và 01 cuốn vở học sinh có chữ Quang Tâm đang cầm trên tay xuống đất. Công an phường U tiến hành kiểm tra nội dung trong cuốn vở và phát hiện trong vở có thể hiện việc ghi số đề nên đã thu giữ và đưa Lê Văn N về trụ sở Công an phường làm việc.

Qua làm việc tại Công an phường U, Lê Văn N đã khai nhận cùng với Trần Thị T nhận ghi số đề cho các đối tượng tên L1, D, D1, Ph, N1, T1 (không rõ nhân thân), sau đó N chuyển cho L và Đ. Trên cơ sở lời khai của Lê Văn N, Công an phường tiến hành xác minh, triệu tập Trần Thị T đến làm việc và thu giữ đồ vật, tài liệu gồm:

- 01 điện thoại di động hiệu Realme 7i, màu xanh, gắn sim số 0382.630173; 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu trắng gắn sim số 0383.192.024; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu xanh; 01 điện thoại di động hiệu OPPO F11 Pro màu xanh đen;

- 01 cuốn vở học sinh có chữ Quang Tâm;

- Số tiền 15.200.000 đồng.

Sau khi lập hồ sơ ban đầu, Công an phường U chuyển toàn bộ hồ sơ cùng vật chứng, đồ vật tài liệu đã thu giữ cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T thụ lý theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra, Lê Văn N và Trần Thị T khai nhận cụ thể như sau:

- Lê Văn N khai: N bắt đầu đứng ra làm cái số đề từ khoảng tháng 10/2020, việc đánh đề được thực hiện qua tin nhắn điện thoại, điện thoại sử dụng để liên hệ với các con bạc là điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng gắn sim số 0383.192.024. Sau khi ghi đề cho các con bạc, N chuyển cho L và Đ để hưởng phần trăm. Trong thời gian làm cái, ngoài việc tự ghi số đề cho các con bạc, N còn nhận phơi đề do T chuyển đến cho mình. Việc thanh toán tiền ghi đề và thắng được do trúng số đề từ tháng 10/2020 đến ngày 22/11/2020 N đã thực hiện xong và đã xóa bỏ các phơi đề nên không nhớ được cụ thể số tiền của các lần đánh bạc trước đó. Đến ngày 23/11/2020, N trực tiếp ghi số đề cho L1 với số tiền 2.250.000 đồng, D với số tiền 304.000 đồng, D1 với số tiền 900.000 đồng, P với số tiền 910.000 đồng, N1 với số tiền 3.000.000 đồng, T1 với số tiền 156.000 đồng và nhận phơi đề do T chuyển đến với số tiền 10.780.000 đồng. Việc thanh toán tiền được tiến hành sau khi có kết quả xổ số kiến thiết Thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 23/11/2020, khi N đi đến khu vực thuộc tổ 2, khu phố 6, phường U thì bị Công an phường U bắt giữ.

- Trần Thị T khai: Do từng ở chung khu nhà trọ với Lê Văn N nên biết N đánh bạc với các đối tượng khác bằng hình thức ghi số đề, N là người làm cái nên T xin tham gia cùng. Trước ngày bị bắt, T đã nhiều lần nhận ghi số đề từ các đối tượng (không rõ nhân thân), sau khi ghi số đề từ những người này, T nhắn tin chuyển cho N, những tin nhắn này T đã xóa sau khi thanh toán tiền nên không biết rõ số tiền cụ thể của từng lần đánh. Đến ngày 23/11/2020, T tiếp tục nhận ghi số đề cho đối tượng tên L2 và Ph (không rõ nhân thân) với số tiền 10.780.000 đồng nhưng cả hai chưa thanh toán tiền cho T, việc thanh toán tiền thắng thua được tiến hành sau khi có kết quả xổ số kiến thiết Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi ghi số cho L2, Ph xong, T nhắn tin chuyển cho N. Khi nghe tin N bị bắt, T đã xóa tin nhắn trên điện thoại, quá trình đánh đề với các con bạc và N, T sử dụng điện thoại di động hiệu Realme 7i, màu xanh, gắn sim số 0382.630173.

Căn cứ vào lời khai của Lê Văn N, Trần Thị T về số tiền sử dụng đánh bạc vào ngày 23/11/2020 và các chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra xác định tổng số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 10.780.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định Lê Văn N không sử dụng điện thoại di động hiệu Nokia, màu xanh và điện thoại di động hiệu OPPO F11 Pro, màu xanh đen cùng số tiền 15.200.000 đồng để thực hiện hành vi phạm tội.

Cáo trạng số 79/CT-VKSTU ngày 19/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T truy tố các bị cáo Lê Văn N và Trần Thị T về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình phạt:

+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn N từ 09 đến 12 tháng tù;

+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Thị T từ 06 đến 09 tháng tù.

- Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu nộp vào Ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Realme màu xanh và 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 màu trắng; tịch thu tiêu hủy 01 cuốn vở học sinh có chữ Quang Tâm; trả lại cho bị cáo N 01 điện thoại di động hiệu Nokia TA-1010 màu xanh, 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh-đen-tím và số tiền 15.200.000 đồng. Buộc các bị cáo phải nộp lại số tiền 10.780.000 đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Các bị cáo không có ý kiến gì trong phần tranh luận. Trong phần trình bày lời nói sau cùng, các bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai trái, ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thu tuc tố tung: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều khai nhận: Ngày 23/11/2020, tại khu phố 6, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương, Lê Văn N cùng Trần Thị T đã thực hiện hành vi đánh bạc được thua bằng tiền bằng hình thức ghi số đề cho các đối tượng tên L1, D, D1, P, N1, T1, Ph, L2 (không rõ nhân thân) thì bị phát hiện. Tổng số tiền Lê Văn N và Trần Thị T sử dụng để đánh bạc là 10.780.000 đồng. Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T truy tố các bị cáo về tội danh và điều khoản như trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng tại địa phương. Các bị cáo đều nhận thức được Nhà nước nghiêm cấm việc đánh bạc trái phép dưới mọi hình thức nhưng vì động cơ tư lợi mà vẫn bất chấp pháp luật, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, để có tác dụng giáo dục các bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, đồng thời nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm chung trong xã hội, đối với các bị cáo cần có mức án tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà mỗi bị cáo đã thực hiện. Tuy nhiên, các bị cáo đều có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội lần đầu, do đó không cần thiết áp dụng hình phạt tù mà xử phạt tiền đối với các bị cáo cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

[4] Về vai trò: Vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng nhau thực hiện tội phạm trong đó bị cáo N tự ghi số đề cho các con bạc, nhận phơi đề do T chuyển đến và chuyển cho L, Đ (không rõ nhân thân lai lịch) nhằm mục đích hưởng phần trăm. T giúp sức cho N ghi phơi đề từ các con bạc và chuyển cho N. Vì vậy, khi quyết định hình phạt cũng cần cân nhắc vai trò, tính nguy hiểm của từng bị cáo cho phù hợp.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo N có bà ngoại là bà Huỳnh Thị Th được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhì do đó bị cáo còn được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Đối với 01 cuốn vở học sinh có chữ Quang Tâm là công cụ phạm tội, N dùng để ghi số đề nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Realme màu xanh của T và 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 màu trắng của N là phương tiện các bị cáo sử dụng để liên lạc ghi số đề nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia TA-1010 màu xanh, 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh-đen-tím và số tiền 15.200.000 đồng không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo N.

- Đối với số tiền 10.780.000 đồng các bị cáo dùng để đánh bạc nhưng chưa giao nhận nên cần buộc các bị cáo phải nộp lại để sung vào ngân sách nhà nước.

[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là chưa phù hợp nên Hội đồng xét xử không chấp nhận nhận.

[9] Quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân lai lịch của các đối tượng L1, D, D1, P, N1, T1, Ph, L2, L3 nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T tiếp tục điều tra xác minh làm rõ và xử lý sau là phù hợp.

[10] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Lê Văn N và Trần Thị T phạm tội “Đánh bạc”.

1. Về trách nhiệm hình sự:

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 35; Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn N 35.000.000 đồng (Ba mươi lăm triệu đồng).

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 35; Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Thị T 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy 01 cuốn vở học sinh (loại 200 trang), có chữ Quang Tâm;

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Realme màu xanh và 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 màu trắng, số imeil: 359752071604444/01;

- Trả lại cho bị cáo Lê Văn N 01 điện thoại di động hiệu Nokia TA-1010 màu xanh, số imeil: 357678102035039; 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh-đen-tím và số tiền 15.200.000 đồng.

- Buộc các bị cáo Lê Văn N và Trần Thị T phải nộp số tiền 10.780.000 đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 11/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T).

3. Án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buôc mỗi bị cáo Lê Văn N và Trần Thị T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2021/HS-ST ngày 24/05/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:73/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về