Bản án 73/2021/HS-ST ngày 08/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 73/2021/HS-ST NGÀY 08/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 08 tháng 09 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện K xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 72/2021/TLST- HS ngày 26 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2021/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 08 năm 2021 đối với bị cáo:

Đào Văn N (tên gọi khác: không); sinh năm 1995 tại tỉnh Ninh Bình. Nơi cư trú: Xóm 15, xã Đ, huyện K, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Đào Văn H1 (đã chết) và bà Nguyễn Thị C (đã chết). Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05/06/2021 đến ngày 12/06/2021 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình; có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Đỗ Văn H - sinh năm 1990; trú tại: Xóm 15, xã Đ, huyện K, tỉnh Ninh Bình; vắng mặt.

- Người chứng kiến:

+ Anh Dương Văn H2, anh Đỗ Văn C1; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên buổi trưa ngày 05/06/2021, Đào Văn N điều khiển xe mô tô mang BKS 77H7-3763 đi từ nhà đến khu vực cầu chợ thuộc xóm 5, xã C, huyện K, tỉnh Ninh Bình. Tại đây N gặp một người đàn ông không quen biết hỏi và mua được 01 gói ma túy ngoài bằng giấy bạc màu vàng với giá 100.000 đồng. Sau đó Như cầm gói ma túy trên ở tay trái và điều khiển xe mô tô đi về. Hồi 12 giờ 15 phút cùng ngày, khi đi đến khu vực cán h đồng thuộc xóm 6, xã C, huyện K, N dừng xe, định mở gói ma túy ra để kiểm tra thì bị tổ Công tác của Công an huyện K phát hiện, bắt quả tang. Thu giữ của Đào Văn N 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng; 01 xe mô tô kiểu dáng WAVE, mang BKS 77H7 – 3763, trên lốc máy có ghi chữ Shmore. Kiểm tra gói nhỏ thu giữ của Đào Văn N bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng, cân xác định khối lượng là 0,21 gam, kí hiệu M gửi trưng cầu giám định.

Tại bản kết luận giám định số 440/KLGĐ –PC09-MT ngày 11/06/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận:“Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định kí hiệu M có khối lượng là 0,2142 gam là ma túy, loại Heroine .

Quá trình điều tra, Đào Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Cáo trạng số 75/CT-VKS ngày 25/08/2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình truy tố bị cáo cáo Đào Văn N về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà Kiểm sát viên tham gia phiên toà giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Đào Văn N phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Đào Văn N từ 15 (mười lăm) tháng tù đến 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo ngày 05/06/2021.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy những vật chứng của vụ án bao gồm:

- 01 phong bì niêm phong ghi số 440/KLGĐ-PC09-MT, bên trong có vật chứng còn lại sau giám định, kí hiệu M, có khối lượng 0,1330 gam, là ma túy loại Heroine và toàn bộ vỏ bao gói niêm phong trên giáp lai có chữ kí của đại diện bên giao, bên nhận đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Ninh Bình.

- 01 phong bì niêm phong bên trong có: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu khi thu giữ 01 gói nhỏ của Đào Văn N; 01 vỏ gói nhỏ là giấy vàng.

- Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 buộc bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình như nội dung bản cáo trạng. Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai tại phiên toà của bị cáo Đào Văn N như nội dung bản cáo trạng, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến, phù hợp với biên bản về việc thu giữ và niêm phong vật chứng, lập hồi 12 giờ 20 phút ngày 05 tháng 6 năm 2021 và biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 12 giờ 55 phút ngày 05 tháng 06 năm 2021; phù hợp kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Từ những tài liệu, chứng cứ nêu trên đủ căn cứ kết luận: Hồi 12 giờ 15 phút ngày 05/06/2021, tại khu vực cánh đồng thuộc xóm 6, xã C, huyện K, Đào Văn N có hành vi cất giữ trái phép trong người 0,2142 gam Heroine để sử dụng cho bản thân.

Heroin là chất ma túy có số thứ tự 09 thuộc Bảng danh mục I ban hành kèm theo Nghị định số 73/2018/NĐ–CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ.

[2] Đối chiếu với quy định của pháp luật hình sự thấy hành vi, tội danh và điều khoản áp dụng tại cáo trạng, lời luận tội, các chứng cứ buộc tội bị cáo như Kiểm sát viên trình bày tại phiên toà là có căn cứ. Hành vi cất giữ trái phép chất ma túy có khối lượng 0,2142 gam là loại Heroine của bị cáo Như đã phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

“Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

……..

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

…….. [3] Vụ án có tính chất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền của nhà nước về quản lý, sản xuất kinh doanh, một số loại hàng cấm, nguy hiểm cho xã hội. Mặt khác hành vi của bị cáo còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự xã hội và việc quản lý kinh tế tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ ma túy là mặt hàng nhà nước nghiêm cấm việc tàng trữ, sử dụng và mua bán, việc làm của bị cáo là vi phạm pháp luật nhưng vì nhu cầu sử dụng cho bản thân mà bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý. Do đó cần có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục, cải tạo bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Căn cứ quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử phạt bị cáo N một mức hình phạt tương xứng với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để tạo điều kiện cho bị cáo yên tâm cai nghiện, học tập thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội để phục vụ cho nhu cầu nghiện ma túy của bản thân, mặt khác qua xác minh tại chính quyền địa phương bị cáo không có tài sản riêng và cũng không có công ăn việc làm ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về nguồn gốc ma túy: Đào Văn N khai mua của người đàn ông ở khu vực cầu chợ thuộc xóm 5, xã C, huyện K, N không biết tên, tuổi, địa chỉ người này, nếu gặp mặt cũng không nhận dạng được nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K không đủ căn cứ để điều tra, xác minh.

[7] Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:

Xe mô tô kiểu dáng WAVE, mang BKS 77H7 – 3763 thuộc quyền sở hữu của anh Đỗ Văn H. Anh H không biết việc Đào Văn N mượn xe để đi mua ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K đã trả lại xe mô tô trên cho anh H. Việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K trả lại xe cho anh H là đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Những vật chứng còn lại của vụ án căn cứ vào Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS xử lý như sau:

Toàn bộ số ma túy hoàn trả sau khi giám định có khối lượng M = 0,1330 gam Heroin cùng với toàn bộ vỏ bao niêm phong ban đầu được niêm phong trong một phong bì ghi số 440/KLGĐ – PC09 - MT cần tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

01 phong bì niêm phong bên trong có: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu khi thu giữ 01 gói nhỏ của Đào Văn N; 01 vỏ gói nhỏ là giấy vàng. Cần tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo Đào Văn N phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[9] Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[10] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện K, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra , truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Đào Văn N phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Xử phạt bị cáo Đào Văn N 16 (mười sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo là ngày 05/06/2021.

2. Xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 của Bộ luật Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy những vật chứng của vụ án gồm:

Toàn bộ số ma túy hoàn trả sau khi giám định có khối lượng M = 0,1330 gam Heroin cùng với toàn bộ vỏ bao niêm phong được niêm phong trong một phong bì ghi số 440/KLGĐ – PC09 – MT.

01 phong bì niêm phong bên trong có: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu khi thu giữ 01 gói nhỏ của Đào Văn N; 01 vỏ gói nhỏ là giấy vàng (Chi tiết vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/08/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K và Chi cục thi hành án dân sự huyện K).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Đào Văn N phải nộp 200.000 đồng ( Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án ( 08/09/2021). Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

103
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2021/HS-ST ngày 08/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:73/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về