Bản án 73/2020/HS-ST ngày 29/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 73/2020/HS-ST NGÀY 29/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 26/2020/TLST-HS ngày 05 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 174/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 4 năm đối với bị cáo:

Nguyễn Khắc H, sinh ngày: 15/12/1975 tại thành phố P; Nơi cư trú: Tổ 5A, khu 1A, phường N, thành phố V, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Khắc H1 và bà Đoàn Thị C; có vợ là Hứa Thị T H2; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số 35/HSST ngày 18/5/1994, Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì xử Nguyễn Khắc H, 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”; Bản án hình sự sơ thẩm số 108/HSST ngày 08/12/1997, Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì xử Nguyễn Khắc H, 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”; Bản án hình sự sơ thẩm số 147/HSST ngày 24/7/1999, Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì xử Nguyễn Khắc H, 4 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”; Bản án hình sự sơ thẩm số 89/HSST ngày 14/8/2003, Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì xử Nguyễn Khắc H, 07 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và án phí hình sự sơ thẩm. H đã chấp hành xong toàn bộ các quyết định của bản án; Bản án hình sự sơ thẩm số 234/HSST ngày 26/11/2010, Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì xử Nguyễn Khắc H, 33 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. H đã chấp hành xong các quyết định của bản án. Ra trại ngày 07/3/2013; Bị cáo bị bắt khẩn cấp và bị tạm giữ từ ngày 17/12/2019 đến ngày 23/12/2019 bị khởi tố và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại phường N, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, có mặt.

- Bị hại: Chị Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1987 Nơi cư trú : Khu 4, xã Hy C1, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. (Chị T có đơn xin xét xử vắng)

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Hứa Thị Thanh H2, sinh năm 1987 Nơi cư trú: Tổ 5A, khu 1A, phường N, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 16 giờ 00 ngày 17/12/2019, Nguyễn Khắc H, sinh năm: 1975, trú tại: tổ 5A, khu 1A, phường N, thành phố V, tỉnh Phú Thọ điều khiển xe mô tô nhãn hiệu SAPPHIRE-BELLA, màu vàng, biển kiểm soát 19B1-081.44 đến cổng trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng thuộc khu 6, phường N, thành phố V, tỉnh Phú Thọ để đón cháu. Khi đang đứng chờ cháu tan học H nhìn thấy chị Nguyễn Thị Kim T đi xe mô tô hon da LEAD, biển kiểm soát 19L1 – 244.51 đến và dựng xe ở cổng trường, cách vị trí H đang đứng khoảng 2 mét. H nhìn thấy chị T mở khóa cốp xe ra và để túi xách màu đen vào trong cốp xe rồi hạ yên xe xuống. Nhưng do yên xe chưa hạ đúng chốt khóa nên cốp xe chưa được khóa chốt. Thấy chị T đi vào trong trường đón con, H nảy sinh ý định trộm cắp chiếc túi xách của chị T. Quan sát thấy không có ai, H điều khiển xe của mình lại sát với xe của chị T đang dựng, tay trái nhấc yên xe lên, tay phải lấy chiếc túi xách bên trong cốp xe. Sau đó H điều khiển xe mô tô của mình đi đến khu L thuộc phường G, thành phố V, tỉnh Phú Thọ thì dừng xe lấy chiếc túi xách vừa trộm cắp được để kiểm tra. Thấy bên trong có số tiền 1.100.000đ, một chiếc điện thoại IPHONE 6 PLUS màu vàng, có vỏ nhựa ốp sau, 01 sim điện thoại, 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Nguyễn Thị Kim T. H tháo sim của chiếc điện thoại vừa trộm cắp được rồi vứt cùng túi xách, vỏ ốp điện thoại, chứng minh thư nhân dân ở bãi cỏ ven đường, còn tiền và điện thoại H giữ lại rồi điều khiển xe về nhà và không nói với ai biết việc H vừa trộm cắp số tài sản trên.

Cùng ngày 17/12/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố Việt Trì nhận được đơn trình báo về việc bị mất trộm tài sản của chị Nguyễn Thị Kim T. Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Việt Trì đã xác minh, xác định được Nguyễn Khắc H đã thực hiện hành vi trộm cắp chiếc túi xách của chị Nguyễn Thị Kim T bên trong túi có số tiền 1.100.000đ, một chiếc điện thoại IPHONE 6 PLUS màu vàng, có vỏ nhựa ốp sau, 01 sim điện thoại, 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Nguyễn Thị Kim T của chị T. Nguyễn Khắc H đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra số tiền 1.100.000đ và chiếc điện thoại IPHONE 6 PLUS, màu vàng. Cơ quan cảnh sát điều tra đã tiến hành dẫn giải Nguyễn Khắc H đến nơi đã vứt số đồ vật, tài sản và đã thu lại được toàn bộ số đồ vật và tài sản mà H đã vứt trước đó.

Ngày 18/12/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Việt Trì yêu cầu định giá tài sản đối với số tài sản mà Nguyễn Khắc H đã trộm cắp được của chị Nguyễn Thị Kim T ngày 17/12/2019. Tại Bản kết luận định giá tài sản số 181, 182 cùng ngày 18/12/2019, Hội đồng định giá tài sản - Ủy ban nhân dân thành phố Việt Trì kết luận:

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 6 PLUS, màu vàng, có giá là: 850.000 đồng.

- Đối với 01 sim điện thoại di động mạng Viettel, đã qua sử dụng có giá là: 50.000 đồng.

- Đối với 01 túi xách giả da màu đen, đã qua sử dụng có giá là 120.000 đồng.

- Đối với 01 ốp lưng điện thoại IPHONE 6 PLUS, đã qua sử dụng có giá là: 60.000 đồng.

Tổng cộng: 850.000 đồng + 50.000 đồng + 120.000 đồng + 60.000 đồng = 1.080.000 đồng.

Bằng chữ: Một triệu không trăm tám mươi ngàn đồng.

Như vậy tổng giá trị tài sản H trộm cắp của chị T là 2.180.000 đồng. Ngày 24/12/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Việt Trì ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc túi xách, tiền mặt 1.100.000đ, một chiếc điện thoại IPHONE 6 PLUS màu vàng, có vỏ nhựa ốp sau, 01 sim điện thoại, 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Nguyễn Thị Kim T cho chị T. Chị T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã truy tố.

Đối với yêu cầu của bị hại, bị cáo không có ý kiến gì.

Bản Cáo trạng số: 39/CT-VKS ngày 02 tháng 3 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ truy tố bị cáo Nguyễn Khắc H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố và đ ề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Khắc H phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36; điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Khắc H từ: 24 (Hai mươi tư) tháng đến 30 (Ba mươi) tháng cải tạo không giam giữ. Được khấu trừ thời gian tạm giữ từ 17/12/2019 đến ngày 23/12/2019 (quy đổi 06 ngày tạm giữ x 3 = 18 ngày cải tạo không giam giữ). Thời gian cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường N, thành phố V, tỉnh Phú Thọ được giao giám sát bị cáo H nhận được Quyết định Thi hành án và bản sao Bản án. Giao bị cáo H cho Ủy ban nhân dân phường N, thành phố V, tỉnh Phú Thọ giám sát giáo dục và gia đình bị cáo H có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo H trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần.

Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật Thi hành án hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Xác nhận Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Nguyễn Thị Kim T 01 túi xách, tiền mặt 1.100.000đ, một chiếc điện thoại IPHONE 6 PLUS màu vàng, 01 sim điện thoại, 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Nguyễn Thị Kim T. Chị T không có yêu cầu gì khác.

Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy của bị cáo H: 01 áo phông ngắn tay, màu đen, mặt trước và mặt sau áo có in hình con chó; 01 mũ bảo hiểm loại nửa đâu màu đen có in hình logo chữ “NIKE”; 01 quần bò màu xanh nhạt.

- Trả lại cho bị cáo H: 01 chứng minh nhân dân số 131481877 mang tên Nguyễn Khắc H.

- Trả lại cho chị Hứa Thị Thanh H2 01 xe mô tô nhãn hiệu SAPPHIRE- BELLA, màu vàng, biển kiểm soát 19B1-08144. Số máy: QMJ1B009140, số khung: CJ402B1005937.

- Chuyển lưu hồ sơ vụ án 01 đĩa CD trích xuất dữ liệu camera.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo nhận thức hành vi của mình là sai, bị cáo ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

nh vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Việt Trì, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng đã được tống đạt cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đúng thời hạn do pháp luật quy định nên các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

Bị hại là chị Nguyễn Thị Kim T, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án là chị Hứa Thị Thanh H2 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa, chị T có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét thấy quá trình điều tra, bị hại đã có lời khai đầy đủ, đã trình bày ý kiến của mình về các vấn đề có liên quan trong vụ án nên sự vắng mặt tại phiên tòa của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Do đó, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị hại là không vi phạm các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về nội dung:

Đánh giá các chứng cứ buộc tội đối với bị cáo: Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Nguyễn Khắc H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, thừa nhận nội dung cáo trạng truy tố là đúng.

t lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay đều thống nhất, phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 17/12/2019, tại cổng tường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng thuộc khu 6, phường N, thành phố V, tỉnh Phú Thọ, lợi dụng lúc chị Nguyễn Thị Kim T đi vào trường học để đón con, Nguyễn Khắc H đã thực hiện hành vi trộm cắp chiếc túi xách bên trong có số tiền 1.100.000đ, một chiếc điện thoại IPHONE 6 PLUS màu vàng, có gắn 01 sim điện thoại Viettel, có vỏ nhựa ốp sau, 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Nguyễn Thị Kim T của chị T. Tổng giá trị tài sản mà H trộm cắp được là 2.180.000 đồng. Tài sản bị trộm cắp đã được thu hồi trả lại cho bị hại.

Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, nội dung điều luật quy định:

Tại Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…” Về tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo:

nh vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quan hệ sở hữu của cá nhân được nhà nước bảo vệ. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện, xâm phạm đến quan hệ về sở hữu đối với tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, bị cáo bằng hình thức lén lút, lợi dụng người sở hữu tài sản sơ ý nhằm tiếp cận tài sản để thực hiện hành vi chiếm đoạt mà người sở hữu tài sản không biết. Hậu quả là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 2.180.000 đồng (Hai triệu một trăm tám mươi nghìn đồng).

Về nhân thân và tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tiền án, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tuy nhiên bị cáo có nhân thân xấu là đã 03 lần bị Tòa án xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”, 02 lần bị Tòa án xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Vì vậy, nhân thân của bị cáo là xấu.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.Vì vậy, bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện sự khoan hồng và nhân đạo của pháp luật Nhà nước.

Bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng. Do vậy, xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống chung xã hội mà có thể cho bị cáo cải tạo ngoài xã hội cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Xét thấy bị cáo không có việc làm và không có thu nhập ổn định nên miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần.

Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật Thi hành án hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, xét thấy bị cáo không có tài sản riêng, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

Về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự:

Xác nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Việt Trì đã đã trả lại cho chị Nguyễn Thị Kim T 01 túi xách, tiền mặt 1.100.000đ, một chiếc điện thoại IPHONE 6 PLUS màu vàng, 01 sim điện thoại, 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Nguyễn Thị Kim T.

Đối với 01 áo phông ngắn tay, màu đen, mặt trước và mặt sau áo có in hình con chó; 01 mũ bảo hiểm loại nửa đâu màu đen có in hình logo chữ “NIKE”; 01 quần bò màu xanh nhạt là trang phục bị cáo H sử dụng khi phạm tội đến nay bị cáo tự nguyện không nhận lại. Xét thấy số tài sản này không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu SAPPHIRE-BELLA, màu vàng, biển kiểm soát 19B1-08144. Số máy: QMJ1B009140, số khung: CJ402B1005937 là của bố vợ bị cáo cho vợ bị cáo là chị Hứa Thị Thanh H2 làm phương tiện đi lại. Chị H2 không biết bị cáo H sử dụng chiếc xe vào việc phạm tội nên cần trả lại chiếc xe trên cho chị H2 là phù hợp.

[3] Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Xét đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ và đúng theo quy định của pháp luật nên cần được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36; điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Khắc H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Khắc H 24 (Hai mươi tư) tháng cải tạo không giam giữ. Được khấu trừ thời gian tạm giữ từ 17/12/2019 đến ngày 23/12/2019 (quy đổi 06 ngày tạm giữ x 3 = 18 ngày cải tạo không giam giữ). Bị cáo còn phải chấp hành 23 (Hai mươi ba) tháng 12 (Mười hai) ngày cải tạo không giam giữ.

Thời gian cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường N, thành phố V, tỉnh Phú Thọ được giao giám sát bị cáo H nhận được Quyết định Thi hành án và bản sao Bản án. Giao bị cáo H cho Ủy ban nhân dân phường N, thành phố Việt T, tỉnh Phú Thọ giám sát giáo dục và gia đình bị cáo H có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo H trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần.

Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật Thi hành án hình sự.

Về trách nhiệm dân sự:

- Xác nhận Cơ quan điều tra Công an thành phố Việt Trì đã trả lại cho chị Nguyễn Thị Kim T 01 túi xách, tiền mặt 1.100.000đ, một chiếc điện thoại IPHONE 6 PLUS màu vàng, 01 sim điện thoại, 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Nguyễn Thị Kim T .

(Theo biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 24/12/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Việt Trì và chị Nguyễn Thị Kim T).

Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy của bị cáo H: 01 áo phông ngắn tay, màu đen, mặt trước và mặt sau áo có in hình con chó; 01 mũ bảo hiểm loại nửa đâu màu đen có in hình logo chữ “NIKE”; 01 quần bò màu xanh nhạt.

- Trả lại cho bị cáo H: 01 chứng minh nhân dân số 131481877 mang tên Nguyễn Khắc H.

- Trả lại cho chị Hứa Thị Thanh H2 01 xe mô tô nhãn hiệu SAPPHIRE- BELLA, màu vàng, biển kiểm soát 19B1-08144. Số máy: QMJ1B009140, số khung: CJ402B1005937.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03 tháng 03 năm 2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Việt Trì và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì).

- Lưu hồ sơ vụ án 01 USB trích xuất dữ liệu camera.

2. Về án phí:

Buộc bị cáo Nguyễn Khắc H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2020/HS-ST ngày 29/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:73/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về