Bản án 73/2020/HS-ST ngày 17/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TT – THÀNH PHỐ HÀ NỘI 

BẢN ÁN 73/2020/HS-ST NGÀY 17/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TT xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 82/2020/HSST ngày 28 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

HÀ VĂN H, sinh năm 1999 tại huyện ĐB, tỉnh Hòa Bình. Nơi cư trú: Xóm TT, xã TT, huyện ĐB, tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; con ông Hà Văn H và con bà Hà Thị T; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự: Không; Tiền án: Không Nhân thân:

- Năm 2016, Hà Văn H bị TAND huyện ĐB – tỉnh Hòa Bình xử phạt 6 tháng tù nhưn - Năm 2017, Hà Văn H bị TAND huyện ĐB – tỉnh Hòa Bình xử phạt 6 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (bản án số 15/2017/HSST ngày 20/12/2017 – Đã chấp hành xong).

Tạm giữ, tạm giam: Tạm giữ ngày 08/8/2020, tạm giam ngày 17/8/2020 Bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam số 01 – Công an Thành phố Hà Nội, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Ngưi bào chữa cho bị cáo Hà Văn H: Bà Nguyễn Thị V – Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước Thành phố Hà Nội. (có mặt)

* Bị hại: Anh Đinh Văn T – sinh năm 1998 Trú tại: Xã TD, huyện TH, tỉnh Thanh Hóa; (vắng mặt) Nơi ở hiện nay: Thôn 4, xã TH, huyện TT, TP. Hà Nội

NỘI DUNG VỤ ÁN

Hà Văn H là công nhân công trường xây dựng tại Thôn 2 - xã TH- huyện TT - TP Hà Nội và thuê trọ trong khu nhà trọ tại Thôn 4 - xã TH - huyện TT - TP Hà Nội của chị Nguyễn Thị H. Khoảng 09 giờ ngày 05/8/2020, H thấy phòng trọ của anh Đinh Văn T ở bên cạnh khóa cửa nên đã nảy sinh ý định đột nhập vào bên trong để trộm cắp tài sản. H vào nhà bếp của khu nhà trọ lấy một chiếc tua vít có hai đầu, dài khoảng 20 cm rồi quay lại phòng trọ dùng tua vít cạy chốt cửa phòng trọ của anh T. Sau khi phá được chốt, H mở cửa đi vào bên trong phòng phát hiện một chiếc laptop nhãn hiệu Dell, màu bạc đang được cắm dây sạc màu đen để trên chiếc bàn đặt ở giường phía bên phải phòng trọ (theo hướng nhìn từ cửa vào). H lấy chiếc laptop và dây sạc đem về phòng trọ của mình cho vào túi vải màu đen rồi đem đến công trường xây dựng tại Thôn 2 - xã TH giấu vào hòm tôn của H ở công trường rồi quay trở về phòng trọ. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, H đến công trường xây dựng để làm việc và ở lại đó. Sau khi biết bị mất trộm tài sản, anh Đinh Văn T đã đến Cơ quan Công an trình báo. Quá trình xác minh, đến khoảng 20 giờ ngày 07/8/2020, khi H từ công trường trở về phòng trọ thì Công an xã TH mời lên trụ sở để làm việc.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Hà Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình như nội dung nêu trên.

* Tang vật thu giữ:

- 01 chiếc laptop nhãn hiệu Dell, màu bạc, số seri: 6100882634.

- 01 chiếc dây sạc nhãn hiệu Dell, màu đen, số seri: CN00285K-75661.

- 01 chiếc tua vít, dài 20 cm, có hai đầu, ở giữa có gắn nhựa màu đen.

- Tại bản Kết luận định giá tài sản số 67/KL-HĐĐG, ngày 10/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện TT - TP. Hà Nội xác định chiếc Laptop kèm theo dây sạc trên có giá trị: 4.960.000đ (Bốn triệu chín trăm sáu mươi nghìn đồng).

Về dân sự: Anh Đinh Văn T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì khác.

Tại bản Cáo trạng số 80/CT-VKS ngày 27/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TT truy tố đi với Hà Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện TT đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự. Đề nghị tuyên phạt đối với bị cáo Hà Văn H từ 12 – 15 tháng tù.

Trách nhiệm dân sự: Anh Đinh Văn T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì khác.

Ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo: Bị cáo là người dân tộc thiểu số nên nhận thức pháp luật còn hạn chế. Tài sản bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp có giá trị không lớn. Người bị hại đã nhận lại tài sản và không bị hư hỏng gì. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm h, s, b khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, Điều 54 xử phạt bị cáo mức án thấp nhất.

Bị cáo nói lời sau cùng trước khi tuyên án: Bị cáo biết việc làm của mình là vi phạm pháp luật. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về làm ăn lương thiện.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, lời khai của những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện TT, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TT, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Hà Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo thừa nhận bị cáo đã có hành vi trộm cắp tài sản vào khoảng 9 giờ ngày 05/8/2020. Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là 4.960.000đồng.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, cùng các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận: bị cáo Hà Văn H có hành vi Trộm cắp tài sản trị giá là 4.960.000đồng. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện TT truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật hình sự bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến trật tự công cộng tại địa phương, tính chất mức độ phạm tội và hậu quả xảy ra là nghiêm trọng nên cần có biện pháp xử lý nghiêm để răn đe bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[3] Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải lµ tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không Về nhân thân:

Năm 2016, Hà Văn H bị TAND huyện ĐB– tỉnh Hòa Bình xử phạt 6 tháng tù nhưn Năm 2017, Hà Văn H bị TAND huyện ĐB – tỉnh Hòa Bình xử phạt 6 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (bản án số 15/2017/HSST ngày 20/12/2017 – Đã chấp hành xong). Tuy nhiên, bị cáo chưa được xóa án tích. Do bị cáo phạm tội khi bị cáo còn là vị thành niên nên không áp dụng tái phạm đối với bị cáo.

Hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo là nguy hiểm. Bị cáo có hai tiền án về tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo không lấy đó làm bài học lại tiếp tục phạm tội. Thể hiện bị cáo coi thường pháp luật.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Anh Đinh Văn T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì khác.

[5] Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) chiếc Tua vít, dài 20 cm, có hai đầu, ở giữa có gắn nhựa màu đen là công cụ, phương tiện phạm tội của bị cáo theo biên bản về việc giao nhận tài sản tang vật số 07/2020/THA ngày 16 tháng 11 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện TT.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hà Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự.Xử phạt bị cáo Hà Văn H 07 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo ngày 08/8/2020.

Tch nhiệm dân sự: Nời bị hại nhận lại tài sản và không yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tch thu, tiêu hủy 01 (một) chiếc Tua vít, dài 20 cm, có hai đầu, ở giữa có gắn nhựa màu đen của bị cáo theo biên bản về việc giao nhận tài sản tang vật số 07/2020/THA ngày 16 tháng 11 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện TT.

Về án phí: Căn cứ Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án năm 2016 bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

311
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2020/HS-ST ngày 17/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:73/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Trì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về