Bản án 73/2019/HSST ngày 07/06/2019 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 73/2019/HSST NGÀY 07/06/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 07/6/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 76/2019/TLST-HS ngày 07/5/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2019/QĐXXST-HS ngày 21/5/2019; theo Quyết định hoãn phiên tòa số: 06/2019/HSST-QĐ ngày 03/6/2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lò Văn S. Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 05/7/1999; Tại: tỉnh Điện Biên; Nơi cư trú: Bản A, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; con ông: Lò Văn Ư, sinh năm1976 và bà: Lò Thị C, sinh năm 1983; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bị cáo không có án tích, không bị xử lý hành chính; bị cáo bị bắt từ ngày 29/4/2018 "có mặt".

Người bào chữa cho bị cáo là bà: Lê Thị X - Luật sư cộng tác viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên.

2. Họ và tên: Lò Văn T. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày: 15/5/1999; Tại: tỉnh Điện Biên. Nơi cư trú: Bản B, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; con ông: Lò Văn Ư1, sinh năm1978 và bà: Cà Thị S, sinh năm 1979; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bị cáo không có án tích, không bị xử lý hành chính; bị cáo bị bắt từ ngày 29/4/2018 "có mặt".

Người bào chữa cho bị cáo là ông: Lê Đình T - Luật sư cộng tác viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên.

3. Họ và tên: Lường Văn S . Tên gọi khác: Không. Sinh ngày: 08/4/1999.Tại: tỉnh Điện Biên. Nơi cư trú: Bản B, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; con ông: Lường Văn A, sinh năm1979 và bà: Cà Thị P, sinh năm 1980; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bị cáo không có án tích, không bị xử lý hành chính; bị cáo bị bắt từ ngày 22/8/2018 "có mặt".

Người bào chữa cho bị cáo là ông: Lê Đình T - Luật sư cộng tác viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên.

Người bị hại:

- Anh Quàng Văn M, sinh năm 1997."xin xét xử vắng mặt".

Trú tại: Bản C, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Lò Văn Ư, sinh năm 1976;"có mặt".

+ Ông Lường Văn A, sinh năm 1979;"có mặt".

+ Ông Lò Văn Ư1, sinh năm 1978;"có mặt".

Đều trú tại: Bản B, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

- Người có nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Lò Văn Đ, sinh năm 1998;"vắng mặt". Trú tại: Bản T, xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

+ Anh Quàng Văn T, sinh năm 1999;"vắng mặt". Trú tại: Đội 16, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

+ Anh Tòng Văn C, sinh năm 1999;"vắng mặt". Trú tại: Bản A, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

+ Anh Lò Văn H, sinh năm 1999;"vắng mặt". Trú tại: Bản B, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

+ Anh Lường Văn P, sinh năm 2000;"vắng mặt".

+ Anh Cà Văn T, sinh năm 1999;"vắng mặt" Trú tại: Bản B, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

+ Anh Lường Văn N, sinh năm 1998;"vắng mặt". Trú tại: Bản D, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

- Người làm chứng:

+ Anh Cầm Văn T, sinh năm 1996;"vắng mặt". Trú Tại: Bản C, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên."Xin xét xử vắng mặt".

+ Anh Lường Văn T, sinh năm 2000;"vắng mặt".

+ Bà Lò Thị T, sinh năm 1960;"vắng mặt".

Đều trú tại: Bản A, xã M, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

+ Lường Thu T, sinh năm 2000;"vắng mặt".

+ Cầm Văn C, sinh năm 2001;"vắng mặt".

+ Cà Thị T, sinh năm 2002;" có mặt".

Người đại diện cháu T là ông Cà Văn D, sinh năm 1977.

Đều trú tại: Bản C, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ ngày 18/02/2018( tức ngày mùng 3 tết năm 2018) Lò Văn S cùng Cà Thị T đi chơi, từ khu vực Hầm Đại tướng Võ Nguyên Giáp đi xuống trung tâm xã M, khi đi qua hầm chỉ huy được một đoạn thì gặp Quàng Văn M, Cầm Văn T, Cầm Văn C, Lường Thu T, Quàng Thị T, Lường Thị H, đang đi hướng ngược lên hầm. Khi đến gần, S nghe thấy M và T có những lời nói thô tục khi nói chuyện với nhau nên đã nhắc nhở: “Lên đây nói tục ít thôi bạn ơi”. Nghe S nói vậy, T quay lại, dùng tay trái túm lấy cổ áo của S xách lên và nói: “Mày vừa nói gì đấy”, rồi dùng tay phải đấm một phát vào trán của S, còn M lao vào dùng chân phải đạp vào ngực S một phát, làm S ngã về phía sau. M và T tiếp tục dùng tay, chân đấm đá S thì được mọi người vào can ngăn. Sau đó, nhóm của M tiếp tục đi bộ lên trên hầm chơi, còn S và T đi về. Trên đường về, S gọi điện thoại cho Lường Văn S nói lại sự việc vừa bị đánh trên hầm và nhờ S lên giúp. Sau đó, S và T tiếp tục đi bộ xuống khu vực cầu bê tông nơi có người dân bán hàng để ngồi đợi. Khoảng 15 phút sau Lường Văn S đi xe mô tô đến hỏi: “Bọn nào đánh mày”, Lò Văn S trả lời: “Vừa nãy có hai thằng đánh tao ở trên hầm, gọi được thêm ai thì gọi đi”, Lò Văn S nói tiếp: “Mày gọi điện thoại cho Lò Văn T đi”. Nghe vậy, Lường Văn S lấy điện thoại gọi cho Lò Văn T rồi chuyển máy cho Lò Văn S nói chuyện, S nói với T: “Tao bị đánh trên hầm, mày lên giúp tao với”. T trả lời: “Ừ”.

Sau đó có Tòng Văn C, Lường Văn T, Lường Văn N nghe mọi người nói Lò Văn S bị đánh cũng đến chỗ của S tất cả cùng ở lại khu vực người dân bán hàng gần cầu bê tông để chờ T.

Khi Lò Văn S điện thoại thì T đang ở nhà ăn cơm uống rượu cùng với các bạn là Lò Văn Đ, Quàng Văn T, Lò Văn H, Cà Văn T. Do lúc đó mọi người nói chuyện ồn ào nên T có bật loa ngoài điện thoại để nghe S nói, sau đó T rủ tất cả cùng nhau đi lên chỗ của Lò Văn S để xem S bị đánh như thế nào.

Trước khi đi T đi vào phòng ngủ lấy 01 con dao nhọn cho vào túi quần bên trái rồi cùng mọi người đi xe mô tô đến chỗ của Lò Văn S. Trên đường đi, Lường Văn P, nghe mọi người nói S bị đánh nên P cũng đi theo. Khi đến khu vực cánh đồng mọi người để lại xe rồi cùng đi bộ lên hầm, trên đường đi, T nhặt ở cạnh đường 01 đoạn gậy gỗ dài khoảng 80cm. Khoảng 10 phút sau, nhóm của T đến chỗ Lò Văn S đang ngồi, Tiến hỏi: “Bọn nó đang ở đâu?’ Sơn trả lời: “Bọn nó ở trên hầm, chúng mày lên đánh giúp tao, một mạng người cùng lắm là ba mươi triệu chứ gì”. Sau đó, Lò Văn S được Cà Thị Tiết và Lò Thị Tinh là bà ngoại của S đang bán hàng ở đó đưa về nhà.

Còn Lường Văn S, T, H, Đ, T, T, P, C, N, T đi lên phía hầm. Trên đường đi lên hầm, Lường Văn S nhặt 01 đoạn gậy gỗ có chiều dài là 83,5cm. Khoảng 16 giờ cùng ngày khi nhóm người của Lường Văn S đến khu vực cửa hầm, thì thấy M, C, T, H, T, T đang đi bộ theo hướng từ trên hầm xuống. Lúc này, Lường Văn S cầm đoạn gậy gỗ chạy đến gần nhóm của M, chỉ gậy về phía trước và nói: “Vừa nãy ai đánh Lò Văn S bạn tao” thì M trả lời: “Vừa nãy em có đánh một người, có việc gì không anh”. Nghe vậy, Lường Văn S cầm đoạn gậy gỗ vụt theo hướng từ trên xuống dưới trượt vào vùng đầu của M, rồi vụt tiếp phát thứ hai thì M tránh được, không gây thương tích cho M. Thấy M bị đánh, T lao vào can thì bị T đứng chặn đường và dùng đoạn gậy gỗ vụt một phát về phía người của T nhưng T tránh được. Thấy vậy, nhóm người của T lao vào dùng chân tay đấm đá T và M. Lường Văn S cũng vứt đoạn gậy gỗ vào lề đường rồi dùng tay, chân tham gia đánh M, T.

Cà Văn T cầm đoạn gậy gỗ vụt một phát vào vùng lưng của T, còn M bỏ chạy ngược lên phía hầm, thì bị T đuổi theo và dùng đoạn gậy gỗ vụt một phát trượt vào vùng lưng của M, nhưng không gây thương tích cho M. Thấy M bỏ chạy, Lò Văn T rút con dao nhọn đuổi theo M, vung dao đâm trúng vào vùng thắt lưng bên phải của M, gây vết thương thấu lưng làm thủng manh tràng gây thương tích cho Quàng Văn M là 46%. Sau đó, T rút dao rồi chạy về phía T đang bị mọi người đánh, tiếp tục giơ dao lên nhằm vào người T chém trúng vùng đỉnh chẩm của T gây vết thương phần mềm, tỷ lệ thương tích là 03%. Sau đó, T chạy về phía M, tay trái túm tóc, tay phải giơ dao dí vào cổ M và nói: “Mày có tin tao cắt cổ mày không”. Thấy M không nói gì nên T bỏ đi. Sau đó nhóm của Lò Văn T, Lường Văn S bỏ đi về. Trên đường về T đã ném con dao vào trong rừng. Sau khi bị đánh, Quàng Văn M và Cầm Văn T được đi cấp cứu và điều trị tại bệnh viện đa khoa tỉnh Điện Biên. Quàng Văn M ra viện ngày 13/3/2018; Lò Văn Tinh ra viện ngày 19/02/2018. Cầm Văn T không yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Lò Văn S, Lò Văn T, Lường Văn S về hành vi Cố ý gây thương tích cho T.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 53/TgT ngày 09/4/2018 của Trung tâm pháp y - Sở y tế tỉnh Điện Biên, kết luận: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên cho Quàng Văn M là: 46% ( bốn mươi sáu phần trăm).

Tại bản kết luận giám định pháp y về vật gây thương tích số: 56/GĐ-PY ngày 09/4/2018 của Trung tâm pháp y - Sở y tế tỉnh Điện Biên kết luận: Con dao như đã mô tả ở trên có thể gây nên các thương tích cho Quàng Văn M và phù hợp các đặc điểm hình thành dấu vết thương tích do tác động ngoại lực của vật sắc nhọn gây nên cho Quàng Văn M như đã mô tả trong Hồ sơ bệnh án và trong Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 53/TgT ngày 09/4/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Điện Biên.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng giám định nêu trên.

Về vật chứng vụ án: Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã thu giữ 01 con dao nhọn Lò Văn T đã sử dụng để gây thương tích cho Quàng Văn M; 01 đoạn gậy gỗ Cà Văn T sử dụng để đánh M, T; 01 đoạn gậy gỗ Lường Văn S đã sử dụng để đánh M; 01 điện thoại di động Lường Văn S đã sử dụng để cho Lò Văn S gọi cho Lò Văn T; 01 chiếc máy tính bảng Lò Văn T sử dụng để liên lạc với Lò Văn S; 01 điện thoại di động Lò Văn S sử dụng để liên lạc với Lường Văn S.

Trong quá trình giải quyết vụ án xét thấy: Các bị cáo Lò Văn S, Lường Văn S, Lò Văn T đều chưa có tiền án, tiền sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Quá trình điều tra, các bị cáo đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình; tích cực tác động gia đình để bồi thường thiệt hại cho người bị hại; nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Thành khẩn khai báo” và “Người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại” theo quy định tại điểm s, b khoản 1 Điều 51/BLHS.

Người bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo, không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường gì thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo; Nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của Lò Văn S là do lỗi của bị hại Quàng Văn M và của Cầm Văn T gây ra, vì vậy bị cáo Lò Văn S được xem xét, áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định khoản 2 Điều 51/BLHS.

Tại bản cáo trạng số: 11/CT-VKS-HĐB ngày 28/12/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên đã truy tố các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn T, Lường Văn S về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Điện Biên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS xử phạt các bị cáo Lò Văn S từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù, Lò Văn T từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm tù; áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54/BLHS xử phạt Lường Văn S từ 24 đến 30 tháng tù.

Áp dụng các Điều 584, 585, 590/BLDS chấp nhận việc thỏa thuận giữa gia đình của các bị cáo và gia đình người bị hại về việc bồi thường cho bị hại.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47/BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS về xử lý vật chứng.

Các bị cáo thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nên được miễn toàn bộ án phí HSST.

Ý kiến tranh luận tại phiên tòa:

- Luật sư T: Vic truy tố bị cáo T về tội danh và lời luận tội là đúng quy định của pháp luật. Song về hình phạt bị cáo T có các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, e, s khoản 1 Điều 51/BLHS; Nguyên nhân dẫn đến việc phạm tội của bị cáo là bị hại cũng có lỗi, bị hại đã có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 51/BLHS. Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 54/BLHS xử bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, để thể hiện chính sách của nhà nước đối với người phạm tội nên áp dụng Điều 65/BLHS, Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP cho bị cáo được hưởng án treo.

- Ý kiến VKS: Bị cáo T không bị kích động về tinh thần nên không áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm e khoản 1 Điều 51/BLHS cho bị cáo T. Mức hình phạt từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm tù đối với bị cáo là đã xem xét cho bị cáo. Vì bị cáo bị truy tố theo điểm c khoản 3 Điều 134/BLHS là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt, ngoài ra bị cáo còn thể hiện có tính côn đồ, nên không thể áp dụng khoản 1 Điều 54/BLHS để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

- Luật sư T: Nên thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội đối với bị cáo Lường Văn S và miễn truy cứu trách nhiệm hình sự để đảm bảo nguyên tắc công bằng trong xử lý hình sự đối với bị cáo. Nếu xét xử bị cáo theo hướng có tội thì cũng nên áp dụng điểm a khoản 2 Điều 134/BLHS mới đúng hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên áp dụng Điều 65/BLHS, Nghị quyết số 02/2018/NQ- HĐTP cho bị cáo được hưởng án treo.

- Ý kiến VKS: Đối với bị cáo Lường Văn S là đồng phạm trong vụ án nên phải chịu trách nhiệm hình sự cùng với các bị cáo khác theo điểm c khoản 3 Điều 134/BLHS nhưng bị cáo chỉ giữ vai trò thứ yếu nên cần xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và xét xử bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

- Luật sư X: Lò Văn S là người bị đánh trước, bị hại là người có lỗi trong vụ án này, vai trò của bị cáo là người xúi giục, đề nghị HĐXX áp dụng khoản 4 Điều 17 xét xử bị cáo theo điểm a khoản 2 Điều 134/BLHS; điểm b, e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS, Điều 54, Điều 65/BLHS, Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

-Ý kiến VKS: Bị cáo S không bị kích động về tinh thần nên không áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm e khoản 1 Điều 51/BLHS cho bị cáo. Vẫn giữ nguyên ý kiến và không tranh luận thêm.

- Ý kiến người bị hại: Về hình phạt tôi xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo và xin cho các bị cáo được hưởng án treo. Còn phần bồi thường thiệt hại tôi đề nghị các bị cáo tiếp tục bồi thường cho tôi số tiền còn thiếu theo thỏa thuận là 20 triệu đồng;

- Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nht trí tiếp tục bồi thường cho bị hại số tiền còn thiếu là 20 triệu đồng.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo biết hành vi của các bị cáo là vi phạm pháp luật, các bị cáo đã bị tạm giam thời gian dài, rất hối hận về hành vi phạm tội của mình, các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo, người làm chứng đều khai khi các bị cáo và bị hại xảy ra đánh nhau còn có nhiều người cùng tham gia đánh Quàng Văn M và Cầm Văn T. Đó là Cà Văn T,Tòng Văn C, Lò Văn Đ, Quàng Văn T, Lường Văn P, Lường Văn N, Lò Văn H là những người cùng tham gia đánh Quàng Văn M, Cầm Văn T. Trong đó, Cà Văn T là người có chuẩn bị hung khí là đoạn gậy sau khi chặt bớt đi còn dài hơn 80cm và cũng dùng gậy để đánh M và T. Những người này trước khi tham gia đánh T và M những người này đã trực tiếp được nghe điện thoại của Lò Văn S gọi cho Lò Văn T, sau đó tất cả những người này đều đồng ý đi đánh M và Tinh trả thù cho Lò Văn S.

Tại phiên tòa trong các ngày 23 và 26/4/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 11/2018/TLST-HS ngày 28/12/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2019/QĐXXST-HS ngày 01/4/2019 đối với các bị cáo: Lò Văn T cùng đồng phạm về tội " Cố ý gây thương tích".

Sau phần xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy VKSND huyện Điện Biên đã không truy tố đối với hành vi của Cà Văn T,Tòng Văn C, Lò Văn Đ, Quàng Văn T, Lường Văn P, Lường Văn N, Lò Văn H là đồng phạm trong vụ án là chưa đầy đủ và còn bỏ lọt tội phạm; Hơn thế nữa, cần xác định lại điểm khoản truy tố của VKSND huyện Điện Biên đối với hành vi của hai bị cáo đồng phạm là Lò Văn S và Lường Văn S theo điểm a khoản 2 Điều 134/BLHS mới đúng với hành vi của các bị cáo.

Hi đồng xét xử đã thảo luận và sau đó đã ra Quyết định trả hồ sơ vụ án hình sự thụ lý số: 11/2018/TLST-HSST, ngày 28/12/2018 cho VKSND huyện Điện Biên để làm rõ những nội dung trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Sau khi nhận hồ sơ Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên đã có Công văn số 180/CV-VKS ngày 07/5/2019 cùng hồ sơ vụ án gửi Tòa án là VKSND vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như bản cáo trạng không điều tra bổ sung gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Công an huyện Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

[2]. Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ; gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội. Nên cần phải xử lý các bị cáo nghiêm M tương xứng với các hành vi của các bị cáo đã thực hiện mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Trong vụ án này có đồng phạm nhưng chỉ ở mức độ giản đơn, có nhiều người tham gia, khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo không có sự bàn bạc, phân công, phân nhiệm rõ ràng, cụ thể, do vậy khi lượng hình HĐXX sẽ xem xét, đánh giá vai trò của tùng bị cáo phù hợp với tính chất, hành vi phạm tội của từng bị cáo.

Hi đồng xét xử xét thấy, do bị cáo Lò Văn S có lời nhắc nhở nên đã bị M và Tinh đánh. Vì bị đánh đau quá, nên S đã gọi điện cho các bị cáo Lường Văn S, Lò Văn T và một số bạn khác khi đang chúc tết ăn cơm ở nhà của Lò Văn T để nhờ đánh lại M và T. Do không làm chủ được bản thân, khi hai bên đánh nhau Lò Văn T đã dùng dao sắc nhọn đâm M 01 nhát vào vùng thắt lưng của M, làm cho M bị thương tích 46% sức khỏe. Bị cáo T đã có hành vi dùng dao sắc nhọn là hung khí nguy hiểm gây tổn hại sức khỏe cho bị hại, nên bị cáo bị truy tố theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134/BLHS về tội "Cố ý gây thương tích" là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

Nhưng bản cáo trạng của VKSND huyện Điện Biên đã truy tố cả ba bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134/BLHS là chưa chính xác. Bởi vì, đây là vụ án đồng phạm nhưng ở mức độ giản đơn, có nhiều người tham gia, không có sự phân công vai trò, trách nhiệm cụ thể cho từng người. Mà "Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác" là cấu thành vật chất nên phải xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả xảy ra, để đánh giá vai trò của từng bị cáo phù hợp với tính chất, hành vi phạm tội của từng bị cáo.

Trong vụ án đồng phạm này, bị cáo Lò Văn S là người xúi giục vì khi bị đánh đau quá đã có lời nói với các bạn: “Bọn nó ở trên hầm, chúng mày lên đánh giúp tao, một mạng người cùng lắm là ba mươi triệu chứ gì”. Sau đó, Lò Văn S được Cà Thị T và Lò Thị T là bà ngoại của S đang bán hàng ở đó đưa về nhà, không được tham gia đánh nhau.

Bị cáo Lường Văn S là người giúp sức vì sau khi Lò Văn S bị M và T đánh đã gọi điện cho bị cáo Lường Văn S đến, khi đó điện thoại của Lò Văn S đã hết tiền không gọi được nên Lường Văn S đã cho bị cáo Lò Văn S sử dụng điện thoại của mình để gọi cho bị cáo Tiến, như vậy Lường Văn S là người cung cấp phương tiện liên lạc cho bị cáo Lò Văn S, bị cáo Lường Văn S có tham gia đánh M nhưng không gây thương tích cho M.

Còn bị cáo T là người thực hành, trực tiếp dùng hung khí nguy hiểm là 01 con dao sắc nhọn gây thương tích cho M là 46% sức khỏe. Việc bị cáo T tự ý giấu con dao nhọn ở nhà mang đi thì hai bị cáo Lò Văn S và Lường Văn S không hề biết và khi bị cáo Tiến dùng dao đâm bị hại thì các bị cáo cũng không ai biết. Đây là hành vi vượt quá của người thực hành và cấu thành tình tiết định khung tăng nặng theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134/BLHS, chỉ được áp dụng riêng với bị cáo Lò Văn T.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 17/BLHS thì người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành, nên hai bị cáo chỉ phạm tội cố ý gây thương tích mà hậu quả xảy ra là 46% sức khỏe theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 134/BLHS.

Mặc dù, Lò Văn S và Lường Văn S không biết trước việc Lò Văn T mang dao đi đánh nhau và không trực tiếp gây thương tích cho bị hại nhưng hai bị cáo là đồng phạm trong vụ án, với vai trò là người xúi giục và người giúp sức.

Như vậy, hai bị cáo Lò Văn S và Lường Văn S không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành là bị cáo Lò Văn T, mà hai bị cáo chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về hậu quả xảy ra tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên cho Quàng Văn M là 46% ( bốn mươi sáu phần trăm) theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 134/BLH "Gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%".

Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 298/BLTTHS thì Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố. Do đó, Hội đồng xét xử có căn cứ để xét xử hai bị cáo Lò Văn S và Lường Văn S theo điểm a khoản 2 Điều 134/BLHS.

[3]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo HĐXX thấy rằng: Các bị cáo tuổi đời còn rất trẻ đều sinh năm 1999, được gia đình nuôi ăn học lớp 10/12 và 12/12 thì ở nhà lao động sản xuất cùng gia đình, ngày 18/02/2018 phạm tội trong vụ án này. Các bị cáo mới phạm tội lần đầu chưa có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Sau khi sự việc xảy ra các bị cáo đã cùng gia đình đã thỏa thuận bồi thường cho người bị hại để khắc phục khó khăn, gia đình và người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, người bị hại cũng có lỗi một phần nên các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS.

Sau khi xem xét nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo thì HĐXX xét thấy: Các bị cáo đều sinh năm 1999, tuổi đời còn quá trẻ, các bị cáo vừa học xong cấp 3 mới rời khỏi ghế nhà trường chưa được bao lâu nay đã vướng vào vòng lao lý. Các bị cáo đều phạm tội lần đầu, sau khi phạm tội đã thực sự biết ăn năn hối cải, gia đình các bị cáo cũng đã làm lý theo phong tục dân tộc để xóa bỏ hận thù với nhau. Đến nay sức khỏe của bị hại đã bình thường, bị hại vẫn đi lao động sản xuất bình thường. Hiện tại các bị cáo đã bị tạm giam một thời gian khá dài, đủ để các bị cáo suy nghĩ, xem xét lại lỗi lầm của mình.

HĐXX thấy đối với bị cáo Lường Văn S có vai trò thứ yếu, không trực tiếp gây thương tích cho bị hại, nên chỉ cần xử phạt bị cáo bằng thời gian tạm giam là đủ để bị cáo trở thành người tốt.

Đi với bị cáo Lò Văn S mặc dù bị cáo không trực tiếp tham gia đánh bị hại, mà bị cáo còn bị bị hại đánh. Nhưng bị cáo là đồng phạm trong vụ án với vai trò là người xúi dục, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm cao hơn bị cáo Lường Văn S.

Còn đối với bị cáo Lò Văn T là người trực tiếp gây ra thương tích cho người bị hại, do hôm xảy ra vụ án là ngày mùng 3 tết, bị cáo có uống rượu khi các bạn đến chúc tết và tính nông nổi của tuổi mới lớn đã không làm chủ được bản thân nên đã nhất thời phạm tội HĐXX xét xử sẽ xem xét khi lượng hình.

Về ý kiến của các Luật sư đều cho rằng hai bị cáo Lò Văn S và Lường Văn S chỉ là đồng phạm và chỉ chịu trách nhiệm cùng hậu quả do người thực hành gây ra là 46/% theo điểm a khoản 2 Điều 134/BLHS là có căn cứ và HĐXX chấp nhận. Các luật sư cũng cho rằng ngoài hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm b, s khoản 1 Điều 51/BLHS thì các bị cáo còn phải được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ theo điểm e khoản 1 Điều 51/BLHS vì các bị cáo phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra. HĐXX sẽ xem xét khi lượng hình.

[4]. Đối với Quàng Văn M và Cầm Văn T có hành vi đánh Lò Văn S nhưng không gây thương tích ngày 20/11/2018 Công an huyện Điện Biên đã Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 102, 103 đối với M và T bằng hình thức phạt tiền.

[5]. Đối với Tòng Văn C, Cà Văn T, Lò Văn Đ, Quàng Văn T, Lường Văn P, Lường Văn N, Lò Văn H cùng tham gia đánh bị hại. Quá trình điều tra Công an huyện Điện Biên đã ban hành các quyết định xử lý hành chính đối với những người nêu trên bằng hình thức phạt tiền. Tòa án đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung vì có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm. Nhưng VKS không điều tra bổ sung, cũng không truy tố các đối tượng trên nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[6]. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Sau khi sự việc xảy ra các bị cáo và gia đình đã tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại. Đồng thời gia đình cùng các bị cáo và gia đình cùng người bị hại đã thỏa thuận với nhau về mức bồi thường cho bị hại. Hội đồng xét xử chấp nhận, nhưng do các bị cáo chưa trả hết số tiền bồi thường còn thiếu 20 triệu đồng nên các bị cáo phải có trách nhiệm liên đới bồi thường tiếp cho bị hại.

[7]. Đối với vật chứng vụ án: - Tịch thu tiêu hủy 01 con dao nhọn, 02 đoạn gậy gỗ là công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội.

- Tịch thu, bán hóa giá nộp ngân sách Nhà nước gồm: 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO của bị cáo Lường Văn S, 01 máy tính bảng nhãn hiệu Huawei của bị cáo Lò Văn T, 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO F1S của bị cáo Lò Văn S. Đây là phương tiện mà các bị cáo dùng để liên lạc trước khi phạm tội.

[8]. Các bị cáo là dân tộc thiểu số thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nên được miễn toàn bộ án phí HSST và án phí DSST có giá ngạch.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Lò Văn T, Lò Văn S, Lường Văn S đều phạm tội "Cố ý gây thương tích".

Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134/Bộ luật Hình sự; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS; Điu 58/BLHS xử phạt bị cáo Lò Văn T 05(năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt ngày 29/4/2018.

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 134/BLHS; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51/BLHS; Điều 58/BLHS; khoản 1 Điều 54/BLHS; khoản 2 Điều 298/BLTTHS xử phạt bị cáo Lò Văn S 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt ngày (29/4/2018).

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 134/BLHS; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51/BLHS;

Điu 58/BLHS; khoản 1 Điều 54/BLHS; khoản 2 Điều 298, khoản 5 Điều 328/BLTTHS xử phạt bị cáo Lường Văn S 09 tháng 19 ngày tù, thời hạn phạt tù bằng thời gian bị cáo đã bị tạm giam.Trả tự do ngay cho bị cáo tại phiên tòa, nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

2. Trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584; 585; 590/Bộ luật Dân sự:

- Chấp nhận việc thỏa thuận bồi thường thiệt hại cho người bị hại theo biên bản thỏa thuận.

- Mỗi bị cáo phải bồi thường tiếp cho người bị hại số tiền là: 6.666.000 đồng(sáu triệu sáu trăm sáu mươi sáu nghìn đồng).

3. Vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47/BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106/BLTTHS:

- Tịch thu tiêu hủy 01 con dao nhọn, 02 đoạn gậy gỗ là công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội.

- Tịch thu, bán hóa giá nộp ngân sách Nhà nước gồm: 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO của bị cáo Lường Văn S, 01 máy tính bảng nhãn hiệu Huawei của bị cáo Lò Văn T, 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO F1S của bị cáo Lò Văn S. Đây là phương tiện mà các bị cáo dùng để liên lạc trước khi phạm tội.

4. Án phí: Áp dụng Điều 136/BLTTHS; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, các bị cáo được miễn toàn bộ án phí HSST và án phí DSST có giá ngạch.

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được kháng cáo về vấn đề trực tiếp có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3041
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2019/HSST ngày 07/06/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:73/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về