Bản án 73/2019/HS-ST ngày 03/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 73/2019/HS-ST NGÀY 03/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 75/2019/TLST-HS ngày 15/3/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2019/QĐXXST-HS ngày 15/3/2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Minh T, sinh năm 1990 tại Hà Nội; nơi đăng ký HKTT: thôn T, xã P, huyện B, Hà Nội; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn V và bà Lê T; 

Tiền án: Bản án số 357/2012/HSST ngày 25/10/2012 Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy xử phạt 42 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, ra trại ngày 06/9/2015; Bản án số 240/2016/HSST ngày 25/11/2016, Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm xử phạt 20 tháng tù về tội  Trộm  cắp  tài  sản,  ra  trại  ngày12/2/2018; nhân thân: Bản án số 97/2009/HSST ngày 23/10/2009 của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì xử phạt 36 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản ra trại  ngày 02/9/2011 (đã xóa án tích); Danh chỉ bản số 029 lập ngày 14/12/2018 tại Công an quận Nam Từ Liêm; Bị bắt quả tang, tạm giữ , tạm giam từ ngày 01/12/2018; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 01/12/2018, Nguyễn Minh T điều khiển xe máy Honda Airblade BKS 19U2-1910 đến khu vực ngã tư Hồ Tùng Mậu – Phạm Hùng, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội mua 01 gói ma túy đá của một người đàn ông tên Khánh (không rõ lai lịch, địa chỉ) với giá 200.000 đồng tại khu vực tòa nhà Keangnam để sử dụng. Sau khi mua được ma túy, T cất vào túi quần phía sau và điều khiển xe máy đi về, đến đoạn ngã tư đường Phạm Hùng – Nguyễn Hoàng thuộc địa phận phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội thì bị Tổ công tác Y26-141 Công an thành phố Hà Nội kiểm tra hành chính, sợ bị phát hiện nên T đã lấy gói ma túy vừa mua được thả xuống lòng đường thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt giữ cùng vật chứng gồm: 01 túi nilon màu trắng kích thước 4*6cm bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy, 01 xe máy nhãn hiệu Honda AirBlade BKS 19U2-1910, 01 điện thoại di động Samsung màu đen, 01 ví màu nâu, 01 thẻ ATM mang tên Nguyễn Thị Hằng V.

Bản kết luận giám định số 9176 ngày 11/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội xác định: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon là ma túy loại Methaphetamine, khối lượng 0,626gam.

Về nguồn gốc ma túy: T khai mua của đối tượng tên Khánh nhưng T không rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể, nên không có căn cứ xử lý.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda AirBlade BKS 19U2-1910, qua điều tra xác định là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị Hằng V (sinh năm 1986, NKTT: T, huyện B, Hà Nội) là chị gái của T, cho T mượn để đi lại, chị V không biết việc T sử dụng xe để mua ma túy. Ngày 22/02/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm đã trao trả chiếc xe máy nêu trên cùng 01 thẻ ATM cho chị Nguyễn Thị Hằng V.

Bản Cáo trạng số 97/CT-VKS ngày 13/3/2019 của Viện kiểm sát nhân quận Nam Từ Liêm truy tố bị cáo Nguyễn Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm o Khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, xác nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố là đúng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, đánh giá nhân thân của bị cáo đã kết luận giữ quan điểm như cáo trạng truy tố và đề nghị áp dụng Điểm o Khoản 2 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 05 năm đến 06 năm tù. Vật chứng: tịch thu tiêu hủy 01 gói ma túy thu giữ của bị cáo, tịch thu sung quỹ 01 điện thoại và 01 ví da.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo Nguyễn Minh T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm pháp quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định, phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 17 giờ ngày 01/12/2018, tại khu vực ngã tư đường Phạm Hùng- Nguyễn Hoàng thuộc địa phận phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, Nguyễn Minh T có hành vi cất giấu 0,626 gam ma túy loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị Tổ công tác Y26-141 Công an Thành phố Hà Nội phát hiện bắt giữ cùng vật chứng. Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Bản án số 240/2016/HSST ngày 25/11/2016 của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm đã xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T 20 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản đã xác định bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “tái phạm”, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/2/2018, chưa được xóa án tích do vậy lần phạm tội này thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”. Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo theo quy định tại Điểm o Khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, phù hợp pháp luật.

[2] Đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo tàng trữ trái phép 0,626 gam ma túy loại Methamphetamine , có nhân thân xấu.

Tại phiên tòa các bị cáo khai báo thành khẩn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3] Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, căn cứ vào nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì có đủ căn cứ để áp dụng hình phạt tù có thời hạn với mức án như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát mới đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 ví da không có giá trị sử dụng.

[5] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điểm o Khoản 2 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điểm a Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điểm a Khoản 2 Điều 106 và các Điều 136, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T 05 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/12/2018.

- Xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy 01 ví da màu nâu,  01 phong bì bên trong chứa ma túy có chữ ký giáp lai của giám định viên và nhân chứng Bùi Văn Toàn, Nguyễn Văn Nhân; tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen. Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm theo Biên bản giao vật chứng số 107 ngày 14/3/2019.

- Về án phí: bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2019/HS-ST ngày 03/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:73/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về