Bản án 73/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN MINH, TỈNH KIÊN GIANG

 BN ÁN 73/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 127/2019/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 5 năm 2019 về “ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 172/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 10 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa số: 114/2019/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Tôn Thị L, sinh năm 1986 (có mặt);

* Bị đơn: Anh Đàm Văn Chí Nh, sinh năm 1984 (vắng mặt);

Cùng địa chỉ: ấp B A, xã Th H, huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 11/4/2019 và các lời khai tại Tòa án nguyên đơn chị Tôn Thị L trình bày và yêu cầu như sau:

Chị và anh Đàm Văn Chí Nh chung sống vào năm 2005, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Th H, chung sống đến năm 2012 vợ chồng không còn hợp nhau, thường xuyên bất đồng ý kiến, năm 2013 chị ly thân với anh Nh cho đến nay.

- Về con chung: Chị và anh Đàm Văn Chí Nh có 02 con chung tên Đàm Văn T, sinh ngày 22/2/2006; Đàm Chí V, sinh ngày 07/9/2011, hiện tại chị đang nuôi dưỡng.

- Về tài sản và nợ: Vợ chồng không có tài sản chung, không nợ chung.

Nay chị L yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

- Về hôn nhân: Xin được ly hôn với anh Nh.

- Về con chung: Yêu cầu được tiếp tục nuôi hai con, không yêu cầu cấp dưỡng.

- Về tài sản và nợ: Vợ chồng không có tài sản chung, không nợ chung, không yêu cầu giải quyết.

* Bị đơn anh Đàm Văn Chí Nh vắng mặt, không có lời trình bày:

* Tại phiên tòa: Nguyên đơn chị Tôn Thị L giữ nguyên lời trình bày và yêu cầu.

Bị đơn anh Đàm Văn Chí Nh vắng mặt, không có lời trình bày.

Kiểm sát viên phát biểu: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, nguyên đơn thực hiện đúng theo quy định của pháp luật; bị đơn thực hiện chưa đúng theo quy định của pháp luật.

Hướng giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện cho chị Tôn Thị L được ly hôn với anh Đàm Văn Chí Nh; giao con chung tên Đàm Văn T, sinh ngày 22/02/2006 cho anh Nh chăm sóc, nuôi dưỡng theo nguyện vọng của con, chị L không cấp dưỡng nuôi con; giao con chung tên Đàm Chí V, sinh ngày 03/10/2011 cho chị L chăm sóc, nuôi dưỡng theo nguyện vọng của con, anh Nh không cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo hoãn phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải cho bị đơn anh Đàm Văn Chí Nh, nhưng anh Nh đều vắng mặt không lý do, nên được xác định vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại Điều 220 của Bộ luật tố tụng dân sự và tống đạt hợp lệ cho anh Nh nhưng anh Nh vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa lần thứ nhất theo quy định tại khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Sau khi hoãn phiên tòa, Tòa án tống đạt hợp lệ quyết định hoãn phiên tòa cho anh Nh nhưng anh Nh vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Nh theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự [2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Tôn Thị L và anh Đàm Văn Chí Nh chung sống với nhau vào năm 2005, có đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và đảm bảo các điều kiện kết hôn khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận.

Xét yêu cầu của chị Tôn Thị L xin được ly hôn với anh Đàm Văn Chí Nh. Thấy rằng, trong quá trình chung sống giữa chị L và anh Nh đã bất đồng với nhau trong sinh hoạt đời sống, thường xuyên cãi nhau, đồng thời ly thân trong thời gian dài, từ 2013 đến nay. Qua đó cho thấy, nếu chị L và anh Nh có tiếp tục chung sống với nhau cũng không mang lại hạnh phúc cho nhau, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, nên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên và yêu cầu xin ly hôn của chị L, cho chị L được ly hôn với anh Nh.

[3] Về quan hệ con chung: Chị L và anh Nh có 02 con chung tên Đàm Văn T, sinh ngày 22/2/2006; Đàm Chí V, sinh ngày 03/10/2011, hiện nay chị L đang nuôi dưỡng Đàm Chí V; anh Nh đang nuôi dưỡng Đàm Văn T. C h ị L yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung tên Đàm Chí V, sinh ngày 03/10/2011. Xét thấy yêu cầu của chị L là phù hợp với nguyện vọng của cháu V tại biên bản lấy lời khai ngày 21/10/2019 nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị L. Giao con chung tên Đàm Chí V, sinh ngày 03/10/2011cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng; Xét thấy, tại lấy lời khai ngày 21/10/2019 cháu Đàm Văn T có nguyện vọng được sống chung với anh Nh và hiện nay anh Nh đang nuôi dưỡng cháu T. Hội đồng xét xử chấp nhận theo nguyện vọng của cháu T. giao con chung tên Đàm Văn T, sinh ngày 22/02/2006 cho anh Nh tiếp tục nuôi dưỡng.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Tôn Thị L và anh Đàm Văn Chí Nh không ai cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị L xác định không có tài sản chung, không nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Tôn Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 227; Điều 228; Điều 235 và Điều 241 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Tôn Thị L đối với anh Đàm Văn Chí Nh. Cho chị Tôn Thị L được ly hôn với anh Đàm Văn Chí Nh.

-  Về  quan  hệ  con  chung:  Giao  con  chung  tên  Đàm  Chí  V,  sinh  ngày 03/10/2011 cho chị Tôn Thị L tiếp tục nuôi dưỡng; giao con chung tên Đàm Văn T, sinh ngày 22/02/2006 cho anh Đàm Văn Chí Nh tiếp tục nuôi dưỡng.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Tôn Thị L và anh Đàm Văn Chí Nh không ai cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: C h ị  L xác định không có tài sản chung, không nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về án phí: Chị Tôn Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn 300.000 đồng, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm, theo biên lai thu số 0006326  ngày 14/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Minh. Chị L đã nộp xong.

- Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm có mặt nguyên đơn chị Tôn Thị L, vắng mặt bị đơn anh Đàm Văn Chí Nh. Báo cho chị  L và anh Nh biết, chị  có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; anh Nh có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con 

Số hiệu:73/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Minh - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về