Bản án 73/2018/HNGĐ-ST ngày 21/09/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 73/2018/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử công khai vụ án thụ lý số: 907/2018/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 8 năm 2018 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 9 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hữu L, sinh năm 1987; Trú tại: Thôn H, xã L, huyện S, tỉnh Thanh Hóa, vắng mặt.

2. Bị đơn: Bà Trần Thị H, sinh năm 1991; Hộ khẩu thường trú: Thôn H, xã L, huyện S, tỉnh Thanh Hóa; tạm trú: Tổ 2, khu phố H, phường T, thị xã A, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 27 tháng 6 năm 2018, nguyên đơn – ông Nguyễn Hữu L trình bày:

Ông Nguyễn Hữu L và bà Trần Thị H chung sống vợ chồng với nhau từ năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện S, tỉnh Thanh Hóa và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 16/2014, ngày 03/3/2014.

Quá trình chung sống hạnh phúc nhưng vào năm 2016, vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên thường hay bất hòa, tranh cãi gay gắt, dần dần tình cảm vợ chồng rạn nứt. Vợ chồng sống riêng nhau từ năm 2016 cho đến nay.

Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Trần Anh H, sinh ngày 27/6/2014 Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không có khả năng hàn gắn nên ông Nguyễn Hữu L khởi kiện yêu cầu như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Yêu cầu được ly hôn với bà Trần Thị H Về con chung: Yêu cầu trực tiếp, chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Trần Anh H. Không yêu cầu bà Trần Thị H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết * Biên bản lấy lời khai ngày 28 tháng 8 năm 2018, bị đơn – bà Trần Thị H trình bày:

Bà H thống nhất với ông L về thời gian, điều kiện kết hôn, con chung và nguyên nhân mâu thuẫn. Bà H đồng ý toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông L.

Tại phiên tòa, nguyên đơn và bị đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

Vị đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án: Thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định tại Điều 203 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự về xét xử sơ thẩm.

Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử như sau: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

Những yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm về tố tụng: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật: ông Nguyễn Hữu L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bà Trần Thị H và yêu cầu được nuôi con chung nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật trong vụ án là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn – bà Trần Thị H có nơi cư trú tại khu phố 2, phường T, thị xã A, tỉnh Bình Dương vì vậy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự thì Tòa án nhân dân thị xã A, tỉnh Bình Dương là Tòa án có thẩm quyền giải quyết.

[3] Về việc xét xử vắng mặt: Nguyên đơn và bị đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Do vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự [4] Về nội dung: Quan hệ hôn nhân giữa ông Nguyễn Hữu L và bà Trần Thị H được xác lập trên cơ sở tự nguyện vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã D, huyện T, tỉnh Thanh Hóa và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 16/2014, ngày 03/3/2014 nên là hôn nhân hợp pháp.

Ông Nguyễn Hữu L khởi kiện yêu cầu được ly hôn với bà Trần Thị H với lý do: Vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cải vã, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, không ai quan tâm chăm sóc ai. Vợ chồng đã sống riêng nhau từ năm 2016 cho đến nay.

Bị đơn cũng xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống hôn nhân không thể kéo dài nên đồng ý ly hôn với nguyên đơn.

Xét thấy, quan hệ hôn nhân tồn tại bền vững dựa trên tình cảm của vợ chồng, sống có trách nhiệm, thương yêu, chăm sóc, quan tâm lẫn nhau. Nhưng quan hệ hôn nhân giữa nguyên đơn và bị đơn không đạt được các yếu tố của một gia đình hạnh phúc, mỗi người có một cuộc sống riêng trong thời gian dài (từ năm 2016 đến nay), không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Do tình trạng hôn nhân đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc ly hôn với bị đơn.

Về con chung: Bà H và ông L thống nhất sau khi ly hôn giao cháu H cho ông L chăm sóc nuôi dưỡng. Bà H không phải cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, việc giao con chung cho ai chăm sóc nuôi dưỡng phải đảm bảo về quyền lợi mọi mặt của con. Từ khi vợ chồng L và H sống riêng nhau cháu H sống chung với ông L. Ông L chăm sóc con tốt nên cháu H phát triển bình thường và học hành đầy đủ. Do vậy, Hội đồng xét xử xác định ông L là một người cha tốt, có trách nhiệm đối với con cái và đủ điều kiện để nuôi con chung, đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con chung nên Hội đồng xét xử tiếp tục giao cháu H cho ông L chăm sóc và nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của ông L về việc không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp [6] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Khoản 3 Điều 228, Điều 244, Điều 266 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015

- Các Điều 51, 56, 57, 58 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn - ông Nguyễn Hữu L đối với bị đơn - bà Trần Thị H về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Hữu L được ly hôn với bà Trần Thị H

- Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Trần Anh H, sinh ngày 27/6/2014 cho ông Nguyễn Hữu L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu H đủ 18 tuổi. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Hữu L về việc không yêu cầu bà Trần Thị H cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

- Tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016/0024069 ngày 27/8/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2018/HNGĐ-ST ngày 21/09/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:73/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về