Bản án 73/2018/HNGĐ-ST ngày 17/10/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 72 /2018/HNGĐ-ST NGÀY 17/10/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN, GIA ĐÌNH

Ngày 17/10/2018 tại trụ sở toà án nhân dân huyện Lạng Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 236/2018/TLST-HNGĐ ngày 18/6/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 150/2018/QĐST- HNGĐ ngày 11/9/2018 giữa các đương sự:

+ Nguyên đơn: Chị Đinh Thị N, sinh năm 1981 - (Có mặt).

Địa chỉ: Thôn Q, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

+ Bị đơn: Anh Danh T, sinh năm 1985 - (Vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn Q, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện tranh chấp hôn nhân gia đình ghi ngày 22/5/2018 và bản tự khai tiếp theo nguyên đơn chị Đinh Thị N trình bày: Chị và anh Danh T kết hôn ngày 29/5/2009, trước khi cưới có tìm hiểu thỏa thuận và có đăng ký kết hôn tại UBND xã H. Nay vợ chồng có một con chung.

Nguyên nhân mâu thuẫn dẫn đến việc chị làm đơn khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết việc ly hôn giữa chị với anh T là do trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày do tính tình vợ chồng không hợp, vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian ngắn đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn, phía anh T có biểu hiện ngoại tình nên vợ chồng thường xuyên xảy ra xô xát, đánh cãi chửi nhau. Chị và gia đình chồng đã nhiều lần khuyên bảo nhưng anh T vẫn không từ bỏ việc ngoại tình. Tháng 5/2012 do vợ chồng mâu thuẫn căng thẳng, chị đã bỏ về bên mẹ đẻ sinh sống nên vợ chồng đã cắt đứt mọi quan hệ từ đó đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị thiết tha đề nghị

Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Danh T.

- Về con chung: Vợ chồng chị có một con chung là Danh Thị Thùy L, sinh ngày 12/4/2010. Hiện tại chị vẫn đang nuôi con chung nên chị có nguyện vọng xin tiếp tục được nuôi con chung, không yêu cầu anh T phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

- Về tài sản, công nợ, ruộng canh tác: Vợ chồng chị từ khi chung sống chưa sắm sửa phát triển được tài sản gì, và cũng không có công nợ chung, không vay nợ ai, không có ruộng canh tác chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trước phiên tòa hôm nay chị Đinh Thị N vẫn giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn với anh Danh T.

+ Bị đơn anh Danh T: Do anh T không hợp tác nên không có lời khai. Toà án nhân dân huyện Lạng Giang đã tiến hành niêm yết các loại giấy báo, thông báo, giấy triệu tập, quyết định và các thủ tục tố tụng khác theo quy định của pháp luật đầy đủ, hợp lệ và đúng trình tự pháp luật xong anh T vẫn cố tình lẩn trốn dấu địa chỉ. Do vậy Toà án nhân dân huyện Lạng Giang không ghi được lời khai của anh T. Tại phiên toà hôm nay anh T vắng mặt.

+ Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

- Việc tuân theo pháp luật củaThẩm phán và HĐXX: Thẩm phán và thư ký trong quá trình giải quyết vụ án chấp hành đúng quy định của pháp luật. Xác định đúng mối quan hệ tranh chấp; HĐXX thực hiện đúng quy định của pháp luật;

Tuy nhiên Thẩm phán còn có những vi phạm về việc xử lý đơn khởi kiện chậm; Không chuyển quyết định đưa vụ án ra xét xử cho VKS vi phạm các quy định theo khoản 3 Điều 191 và khoản 2 Điều 220 của BLTTDS.

Thư ký không chuyển hồ sơ cho VKS nghiên cứu tham gia phiên tòa ngày 25/9/2018 vi phạm khoản 2 Điều 220 của BLTTDS.

- Việc chấp hành pháp luật của ngƣời tham gia tố tụng: Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật; Bị đơn anh Danh T chưa chấp hành đúng quy định của pháp luật.

- Về quan điểm đƣờng lối giải quyết vụ án:

Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 147; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Điều 8; Điều 9; Điều 51; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án:

1. Quan hệ vợ chồng: Xử cho chị N được ly hôn với anh T.

2. Về con chung: Xử giao cho chị N tiếp nuôi con chung là Danh Thị Thùy L, sinh ngày 12/4/2010. Chị N không yêu cầu anh T phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung;

3. Miễn tiền án phí ly hôn sơ thẩm cho chị N.

- Những yêu cầu, kiến nghị khác: Không.

XÉT THẤY

- Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ các ý kiến của các bên đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Chị Đinh Thị N và anh Danh T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng hoà thuận hạnh phúc đến đầu năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày tính tình không hợp và đã cắt đứt quan hệ từ tháng 5/2012 đến nay, hiện tại chị N đã bỏ về bên nhà mẹ đẻ sinh sống, phía anh T cố tình không hợp tác khi Tòa án giải quyết vụ án. Qua điều tra xác minh tại chính quyền địa phương cũng như gia đình của anh T thể hiện khi Tòa án thông báo thụ lý vụ án phía anh T có biết việc chị N làm đơn xin ly hôn nhưng anh T không đến Tòa án để làm việc nên Tòa án không ghi được lời khai của anh Danh T.

Xét thấy mâu thuẫn giữa chị N và anh T đã trầm trọng, phía chị N làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết việc ly hôn, anh T cố tình không đến Tòa án để làm việc và cũng không đón gọi hoặc có thông tin gì với chị N nên mục đích của hôn nhân không còn đạt được. Do vậy cần giải quyết cho chị Đinh Thị N được ly hôn với anh Danh T là phù hợp với các Điều 51; Điều 56; Điều 58 luật hôn nhân và gia đình năm 2014

- Về con chung: Vợ chồng chị N, anh T có 01 con chung là Danh Thị Thùy L, sinh ngày 12/4/2010, hiện cháu phát triển bình thường và đang do chị N nuôi dưỡng chăm sóc. Phía chị N vẫn mong muốn xin được tiếp tục nuôi con chung và cháu L cũng có nguyện vọng xin được ở với mẹ, xét là phù hợp khoản 2 Điều 81; Điều 82 và Điều 83 luật hôn nhân gia đình năm 2015. Do vậy HĐXX chấp nhận yêu cầu này của cháu L và chị N.

- Về tài sản: chị Đinh Thị N không đề nghị do vậy HĐXX không xem xét giải quyết.

Về án phí: chị N thuộc đối tượng hộ nghèo nên không phải chịu án phí.

Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của BLTTDS.

Việc anh Danh T vắng mặt tại phiên toà ngày 25/9/2018 và phiên toà hôm nay, mọi thủ tục tố tụng, niêm yết công khai các thông báo, quyết định của Toà án nhân dân huyện Lạng Giang đối với anh T khi giải quyết vụ án đầy đủ, hợp lệ, đúng pháp luật. Do vậy quyền lợi của anh T đã được đảm bảo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 147; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Điều 51; Điều 56 và Điều 58; khoản 2 Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật HNGĐ năm 2015.

Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1/ Quan hệ vợ chồng: Xử cho chị Đinh Thị N được ly hôn với anh Danh T.

2/ Con chung: Xử giao cho chị Đinh Thị N tiếp nuôi con chung là Danh Thị Thùy L, sinh ngày 12/4/2010. Chị N không yêu cầu anh T phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn anh Danh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3/ Án phí: Chị Đinh Thị N không phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

Hoàn trả chị N số tiền 300.000đ đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2018/0006566 ngày 18/6/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang.

Báo cho đương sự có mặt biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Đương sự vắng mặt có 15 ngày kháng cáo kể từ ngày niêm yết bản án công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2018/HNGĐ-ST ngày 17/10/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:73/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về