Bản án 73/2017/HNGĐ-ST ngày 17/08/2017 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NINH HÒA, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 73/2017/HNGĐ-ST NGÀY 17/08/2017 VỀ LY HÔN

Ngày 18 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 96/2017/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2017 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/2017/QĐXX-ST ngày 10/7/2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 81/QĐHPT-ST ngày 28/7/2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn T. H - Sinh năm 1980.

Cư trú tại: thôn T, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

- Bị đơn: Ông Hồ N. T - Sinh năm 1971.

Cư trú tại: thôn T, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn T. H trình bày:

Bà và ông Hồ N. T tự nguyện đăng ký kết hôn năm 2001 tại UBND xã N, có 02 con chung tên Hồ T. T. Th - sinh ngày 20/12/2001 và Hồ T. T. L - sinh ngày 28/01/2004. Quá trình chung sống vợ chồng không hạnh phúc vì ông T có bản tính gia trưởng hung hăng, đánh đập và xúc phạm danh dự bà nhiều lần. Hiện nay vợ chồng bà đã sống ly thân mấy tháng nay, bà không còn tình cảm với ông T nên yêu cầu Tòa ángiải quyết ly hôn. Về con chung, bà yêu cầu được nuôi 02 con chung và không yêucầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Hồ N. T được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt nên không lấy được lời trình bày:

Tại phiên tòa, Đại diên viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa là đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, nguyên đơn bà H yêu cầu được ly hôn với ông Hồ N. T, bị đơn không có mặt để thể hiện yêu cầu của mình. Do vậy, nên đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn và nuôi con chung của nguyên đơn là có cơ sở vì tình cảm không còn, đời sống vợ chồng không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung, giao các cháu Hồ T.T. Th - sinh ngày 20/12/2001 và Hồ T. T. L - sinh ngày 28/01/2004 cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật tại Điều 58, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Về cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung, bà H không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã nhiều lần triệu tập lấy lời khai, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải đồng thời tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông Hồ N. T cố tình vắng mặt. Vì vậy, áp dụng Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định.

 [2] Về quan hệ tranh chấp: Bà Nguyễn T. H yêu cầu được ly hôn với ông Hồ N. T nên Hội đồng xét xử xác định đây là tranh chấp về việc “Ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.

 [3] Về nội dung vụ án:

 [3.1] Về quan hệ hôn nhân: Hội đồng xét xử xét thấy: Bà H, ông Hồ N. T tự nguyện chung sống, kết hôn và đã được UBND xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa cấp giấy chứng nhận kết hôn số 19 ngày 12/3/2001 nên Tòa công nhận quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn T. H và ông Hồ N. T là hợp pháp. Theo lời trình bày của nguyên đơn thì trong quá trình chung sống, vợ chồng không hạnh phúc vì ông T có bản tính gia trưởng hung hăng, đánh đập và xúc phạm danh dự bà nhiều lần. Hiện nay vợ chồng bà đã sống ly thân, bà không còn tình cảm với ông T nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Ông Hồ N. T đã được tòa triệu tập đến tòa để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình nhưng vẫn không có mặt là tự từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tại biên bản xác minh tình trạng hôn nhân giữa bà Nguyễn T. H, ông Hồ N. T thể hiện trong “ vợ chồng chung sống nãy sinh mâu thuẩn và đã không chung sống với nhau”.

Do vậy, xét thấy tình cảm của bà Nguyễn T. H không còn đối với ông Hồ N. T, đời sống vợ chồng không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được là có cơ sở. Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn bà H theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

 [3.2] Về con chung: Bà H yêu cầu được nuôi con chung là Hồ T.T. Th - sinh ngày 20/12/2001 và Hồ T. T. L - sinh ngày 28/01/2004 không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Ông T không có mặt tại Tòa án để thực hiện quyền yêu cầu về việc nuôi con chung là tự từ bỏ quyền yêu cầu được nuôi con chung của mình. Việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục sau ly hôn là quyền, nghĩa vụ của cha mẹ, để đảm bảo cho các cháu có đủ điều kiện tốt và xét đến nguyện vọng chính đáng của các cháu. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần giao con chung cho bà Nguyễn T. H trực tiếp trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp và bảo đảm được quyền lợi cho cháu là hợp lý và phù hợp với pháp luật tại các Điều 58; 81; 82 và 83Luật Hôn nhân và gia đình.Ông T có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

 [3.3] Về tài sản chung: Bà Nguyễn T. H không yêu cầu tòa án giải quyết về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa là đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát có quan điểm cho rằng yêu cầu khởi kiện

của nguyên đơn về việc ly hôn và nuôi con chung là có cơ sở chấp nhận và đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Quan điểm nói trên của đại diện Viện kiểm sát về đường lối giải quyết vụ án phù hợp với nhận định trên của Tòa án nên chấp nhận.

 [5] Về án phí: Bà Nguyễn T. H phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết án phí và lệ phí tòa án 326/2016/UBTVQH14.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, 147, 227, 264, 271 và Điều273 của Bộ Luật tố tụng dân sự.

Căn cứ khoản 1 Điều 56, 58, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn bà Nguyễn T. H: Bà Nguyễn T. H được ly hôn với ông Hồ N. T.

2. Về con chung: Giao các cháu Hồ T.T. Th - sinh ngày 20/12/2001 và Hồ T. T. L - sinh ngày 28/01/2004 cho bà Nguyễn T. H trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng. Bà H không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Ông T có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Án phí: Bà Nguyễn T. H phải nộp án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ nhưng được trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016/0013105 ngày 06/3/2017 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Ninh Hòa.

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2017/HNGĐ-ST ngày 17/08/2017 về ly hôn

Số hiệu:73/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về