TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 731/2017/HC-PT NGÀY 15/08/2017 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI BỒI THƯỜNG
Ngày 15 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số: 24/2017/TLPT-HC ngày 23 tháng 5 năm 2017 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai về bồi thường”.
Do bản án hành chính sơ thẩm số 02/2017/HC-ST ngày 17/04/2017 của Tòa án nhân dân Quận 5 bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1644/2017/QĐ-PT ngày 01 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Bà Đặng Thị L1
Trú tại: Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của người khởi kiện: Bà Trần Thị Hồng V trú tại Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh là người đại diện theo ủy quyền của bà Đặng Thị L1 (được ủy quyền theo văn bản ủy quyền số công chứng 014237 lập ngày 31/12/2016 tại Văn phòng Công chứng Chợ Lớn, Thành phố Hồ Chí Minh)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Nguyễn Văn P – Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh
Địa chỉ: Phường C, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Trương Canh B – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận X trú tại Phường C, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh là người đại diện theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân Quận X (được ủy quyền theo văn bản ủy quyền số 03/UQ-UBND ngày 16/02/2017)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Dương Hữu N – Trưởng Ban Bồi thường – Giải phóng mặt bằng Quận X trú tại Phường C, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Trần Thị Liên H;
- Bà Trần Thị Bích T1;
- Bà Trần Kim T2;
- Bà Trần Thị Hồng V;
- Bà Trần Hồng N;
- Ông Đinh Quang K;
- Bà Nguyễn Thùy A
Cùng trú tại: Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của bà Trần Thị Liên H, bà Trần Thị Bích T1, bà Trần Kim T2, ông Đinh Quang K và bà Nguyễn Thùy A: Bà Trần Thị Hồng V và bà Trần Hồng N cùng trú tại Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh là người đại diện theo ủy quyền (được ủy quyền theo văn bản ủy quyền số công chứng 014238 lập ngày 31/12/2016 tại Văn phòng Công chứng Chợ Lớn, Thành phố Hồ Chí Minh).
4. Người kháng cáo: Người khởi kiện bà Đặng Thị L1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Liên H, bà Trần Thị Bích T1, bà Trần Kim T2, bà Trần Thị Hồng V, bà Trần Hồng N, ông Đinh Quang K, bà Nguyễn Thùy A.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Người khởi kiện bà Đặng Thị L1 có bà Trần Thị Hồng V là người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Năm 1958, ông Trần Đức L2 (chồng bà Đặng Thị L1) được chính quyền chế độ cũ cấp 2 căn phòng thuốc thuộc bệnh xá Chợ Lớn cũ để ở. Sau khi được cấp 2 căn phòng trên, gia đình bà đã cải tạo lại thành nhà ở, có cửa chính trổ ra mặt tiền đường Hồng Bàng và số nhà 215/1A cũng được cấp từ trước giải phóng. Suốt thời gian cư ngụ, Nhà nước không hề có văn bản quản lý hoặc bố trí cho người khác sử dụng căn nhà đó.
Ngày 05 tháng 02 năm 2007, Ủy ban nhân dân Quận X ban hành Quyết định số 623/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ thiệt hại giải phóng mặt bằng căn nhà Phường Y, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 05 tháng 6 năm 2007, Ủy ban nhân dân Quận X ban hành Quyết định số 2166/QĐ-UBND thay thế Quyết định số 623/QĐ-UBND ngày 05 tháng 02 năm 2007, giải quyết việc bồi thường đối với căn nhà Phường Y, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung quyết định không đúng đã gây thiệt hại cho gia đình bà.
Nay bà L1 khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy bỏ Quyết định số 2166/QĐ-UBND ngày 05 tháng 6 năm 2007 của Ủy ban nhân dân Quận X về việc thay thế Quyết định số 623/QĐ-UBND ngày 05 tháng 02 năm 2007 về bồi thường, hỗ trợ thiệt hại giải phóng mặt bằng căn nhà Phường Y, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh bởi các lý do sau:
- Khiếu nại giá đền bù áp dụng theo diện nhà thuộc sở hữu tư nhân (áp dụng khoản 4 Điều 4 Nghị định số 127/CP), Ủy ban nhân dân Quận X phải áp dụng giá đền bù theo Nghị quyết số 755/2015/NQ-UBTVQH11 có hiệu lực trước khi có Quyết định số 2166/QĐ-UBND). Ủy ban nhân dân Quận X áp dụng theo giá nhà thuộc diện nhà do Nhà nước quản lý là không đúng.
- Diện tích đất sử dụng nhà là 99,1m2, diện tích xây dụng là 189,1m2 theo bản vẽ ngày 22 tháng 12 năm 2011, nhà xây dựng trổ cửa từ năm 1958. Ủy ban nhân dân Quận X tính diện tích đền bù là 42,663m2 là không đúng thực tế.
- Ủy ban nhân dân Quận X xác định nhà Phường Y, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh là nhà trong hẻm để đền bù là không đúng vì từ năm 1958 gia đình đã sử dụng lối đi chính là mặt tiền đường Hồng Bàng và cho đến năm 1996 mở đường Tản Đà gia đình sử dụng 02 mặt tiền đường cho đến nay.
- Ủy ban nhân dân Quận X áp giá đền bù không đúng đối với vị trí căn nhà Phường Y, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh gây thiệt hại cho gia đình. Bà yêu cầu cầu Ủy ban nhân dân Quận X phải bồi thường cho bà theo giá Nhà nước quy định.
Người bị kiện Ủy ban nhân dân Quận X có ông Trương Canh B là người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Những vấn đề bà Đặng Thị L1 yêu cầu Tòa án giải quyết đã được thể hiện đầy đủ trong nội dung 02 quyết định đã có hiệu lực thi hành, cụ thể:
- Quyết định số 2415/QĐ-UB ND ngày 27 tháng 6 năm 2007 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận X về việc giải quyết đơn khiếu nại của bà Đặng Thị L1 (bà Trần Thị Hồng V là người được cam kết ủy quyền) cư ngụ Phường Y, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Quyết định số 5473/QĐ-UBND ngày 10 tháng 12 năm 2007 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về giải quyết khiếu nại của bà Đặng Thị L1, cư ngụ tại Phường Y, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.
Nay bà L1 khởi kiện yêu cầu Ủy ban nhân dân Quận X hủy Quyết định số 2166/QĐ-UBND ngày 05 tháng 6 năm 2007 về việc thay thế Quyết định số 623/QĐ-UBND ngày 05 tháng 02 năm 2007 về bồi thường, hỗ trợ thiệt hại giải phóng mặt Phường Y, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh với lý do Quyết định trên được ban hành không đúng quy định gây thiệt hại cho gia đình bà. Đại diện Ủy ban nhân dân Quân X có ý kiến như sau: Quyết định số 2166/QĐ-UBND ngày 05 tháng 06 năm 2007 của Ủy ban nhân dân Quận X là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật, có căn cứ như sau: Ủy ban nhân dân Quận X áp dụng theo giá căn nhà Phường Y, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh là nhà thuộc diện nhà do Nhà nước quản lý là đúng quy định của Nhà nước.
Về diện tích đất sử dụng nhà: Căn cứ biên bản phúc tra nhà do Nhà nước quản lý ngày 13 tháng 7 năm 1995 thì diện tích nhà 41,4m2. Sau đó, Ủy ban nhân dân Quận X kiểm tra thực tế thì diện tích đất là 42,663m2 nên tính theo diện tích trên là có căn cứ.
Ủy ban nhân dân Quận X xác định nhà Phường Y, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh là trong hẻm để đền bù là đúng vì từ năm 1958 gia đình của bà L1 đã tự trổ cửa ra mặt tiền đường Hồng Bàng sử dụng và cho đến nay.
Ủy ban nhân dân Quận X tính trượt giá đền bù cho bà L1 được tính từ ngày ra quyết định cho đến nay, theo mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định.
Trường hợp gia đình bà L1 đồng ý với quyết định trên thì có hai cách để giải quyết cụ thể như sau: Nếu bà L1 đồng ý nhận số tiền 1.229.228.000 đồng (một tỷ hai trăm hai mươi chín triệu hai trăm hai mươi tám ngàn đồng) thì được được mua 02 căn hộ tại Chung cư Phường Z, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh theo giá của tái định cư. Trường hợp bà không đồng ý tái định cư thì bà sẽ nhận các khoản tiền đền bù là 1.402.101.221 đồng (một tỷ bốn trăm lẻ hai triệu một trăm lẻ một ngàn hai trăm hai mươi hai đồng).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Hồng V trình bày:
Thống nhất với yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị L1.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Hồng N và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Liên H, bà Trần Thị Bích T1, bà Trần Kim T2, ông Đinh Quang K và bà Nguyễn Thùy A có bà Trần Hồng N và bà Trần Hồng V là người đại diện theo ủy quyền, bà Trần Hồng N trình bày:
Ông Trần Đức L2 (chết năm 1997) và bà Đặng Thị L1 có tất cả các người con gồm: bà Trần Thị Liên H, bà Trần Thị Bích T1, bà Trần Kim T2, bà Trần Thị Hồng V, bà Trần Hồng N, Trần Đức T3 (chết năm 2016) và có các người cháu tên Đinh Quang K và Nguyễn Thùy A. Hiện những người trên đang sinh sống tại Phường Y, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bà có ý kiến và yêu cầu giống như bà L1 đã trình bày ở phần trên. Ngoài ra bà không có ý kiến và yêu cầu bổ sung gì khác.
Tại bản án hành chính sơ thẩm số 02/2017/HC-ST ngày 17/4/2017 của Tòa án nhân dân Quận 5 quyết định:
Bác yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị L1 do bà Trần Thị Hồng V làm đại diện về việc yêu cầu hủy Quyết định số 2166/QĐ-UBND ngày 05 tháng 6 năm 2007 về thay thế Quyết định số 623/QĐ-UBND ngày 05 tháng 02 năm 2007 về việc bồi thường, hỗ trợ thiệt hại giải phóng mặt bằng căn nhà Phường Y, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về phần án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 24 tháng 4 năm 2017, người khởi kiện bà Đặng Thị L1 có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 2166/QĐ-UBND ngày 05/6/2007 của Ủy ban nhân dân Quận X.
Ngày 26 tháng 4 năm 2017, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Liên H, bà Trần Thị Bích T1, bà Trần Kim T2, bà Trần Thị Hồng V, bà Trần Hồng N, ông Đinh Quang K và bà Nguyễn Thùy A có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 2166/QĐ-UBND ngày 05/6/2007 của Ủy ban nhân dân Quận X.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bà Trần Thị Hồng V là người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện trình bày: Ngày 01/6/2017 Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số 2498/QĐ-UBND về điều chỉnh, bổ sung Quyết định số 2166/QĐ-UBND ngày 05/6/2007 của Ủy ban nhân dân Quận X về thay thế Quyết định số 623/QĐ-UBND ngày 05/02/2007 của Ủy ban nhân dân Quận X về việc bồi thường, hỗ trợ thiệt hại giải phóng mặt bằng căn nhà Phường Y, Quận X của bà Đặng Thị L1 (bà Trần Thị Hồng V là người được cam kết ủy quyền). Nội dung sửa đổi:
1. Bổ sung khoản 3 Điều 1 như sau: Ban Bồi thường – Giải phóng mặt bằng Quận X có trách nhiệm giải ngân số tiền bồi thường, hỗ trợ đối với trường hợp tái định cư tạm gửi tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Quận 5 – Phòng Giao dịch Trang Tử cho bà Đặng Thị L1 là 402.101.221 đồng (Bốn trăm lẻ hai triệu, một trăm lẻ một ngàn hai trăm hai mươi mốt đồng) cùng tiền lãi phát sinh tương ứng. Số tiền hỗ trợ tự lo nơi ở mới 57.339.072 đồng ( Năm mươi bảy triệu, ba trăm ba mươi chín ngàn, không trăm bảy mươi hai đồng) cùng tiền lãi phát sinh tương ứng Ban Bồi thường – Giải phóng mặt bằng Quận X có trách nhiệm hoàn trả cho Chủ đầu tư của dự án.
2. Điều chỉnh đoạn 2 khoản 1 Điều 2 như sau:
- Bà Đặng Thị L1 được bố trí hai căn hộ tái định cư số B13.4 và số B13.5 chung cư Phường Z, Quận X với số tiền bồi thường, hỗ trợ thiệt hại được nêu tại khoản 2 Điều 1 của Quyết định này
- Giá bán hai căn hộ tái định cư được tính theo giá tái định cư đã được phê duyệt.
Sau khi Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số 2498/QĐ-UBND, gia đình bà Đặng Thị L1 đã được mua hai căn hộ chung cư và được nhận số tiền bồi thường, hỗ trợ còn lại theo đúng nội dung quyết định trên, vì vậy bà Đặng Thị L1 xin rút đơn khởi kiện và rút kháng cáo.
Bà Trần Thị Hồng V, bà Trần Hồng N là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đồng thời là người đại theo ủy quyền của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị Liên H, bà Trần Thị Bích T1, bà Trần Kim T2, ông Đinh Quang K và bà Nguyễn Thùy A. Bà V và bà N trình bày: Tất cả người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án cũng đồng ý với việc xin rút đơn khởi kiện của người khởi kiện, đồng thời cũng xin rút yêu cầu kháng cáo.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện trình bày: Ngày 01/6/2017, Ủy ban nhân dân Quận X đã ban hành ban hành Quyết định số 2498/QĐ-UBND về điều chỉnh, bổ sung Quyết định số 2166/QĐ-UBND ngày 05/6/2007 của Ủy ban nhân dân Quận X, nhằm đảm bảo quyền lợi của người dân. Hiện nay Quyết định số 2498/QĐ-UBND ngày 01/6/2017 của Ủy ban nhân dân Quận X đã được thực hiện xong. Ủy ban nhân dân Quận X không có ý kiến gì đối với việc bà Đặng Thị L1 rút đơn khởi kiện và rút kháng cáo, đề nghị Tòa giải quyết theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:
+ Về hình thức: Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định pháp luật tố tụng hành chính từ khi thụ lý đến khi xét xử. Tại phiên tòa phúc thẩm cho đến trước khi nghị án, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã tiến hành phiên tòa đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Luật Tố tụng hành chính; các đương sự trong vụ án đã chấp hành đúng quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của mình.
+ Về nội dung: Tại phiên tòa người khởi kiện rút đơn khởi kiện và rút yêu cầu kháng cáo. Tất cả người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án cũng đồng ý với việc người khởi kiện xin rút đơn khởi kiện, đồng thời cũng xin rút yêu cầu kháng cáo. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 235 Luật Tố tụng hành chính hủy bản án sơ thẩm số: 02/2017/HC-ST ngày 17 tháng 4 năm 2017 của Tòa án nhân dân Quận 5 và đình chỉ giải quyết vụ án hành chính thụ lý số: 24/2017/TLPT-HC ngày 23 tháng 5 năm 2017 về “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai về bồi thường”
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, sau khi nghe các bên trình bày ý kiến, sau khi nghe Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm, sau khi nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:
Về hình thức: Đơn kháng cáo của bà Đặng Thị L1, bà Trần Thị Liên H, bà Trần Thị Bích T1, bà Trần Kim T2, bà Trần Thị Hồng V, bà Trần Hồng N, ông Đinh Quang K và bà Nguyễn Thùy A làm trong thời hạn luật định nên chấp nhận.
Về sự vắng mặt của đương sự: Ông Trương Canh B là người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện có đơn xin xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 158, khoản 4 Điều 225 Luật Tố tụng hành chính Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện.
Về nội dung:
Ngày 28/12/2011, bà Đặng Thị L1 nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân Quận X hủy Quyết định hành chính số 2166/QĐ-UBND ngày 05/6/2007 của Ủy ban nhân dân Quận X về thay thế Quyết định số 623/QĐ- UBND ngày 05/02/2007 của Ủy ban nhân dân Quận X về việc bồi thường, hỗ trợ thiệt hại giải phóng mặt bằng căn nhà Phường Y, Quận X của bà Đặng Thị L1 (bà Trần Thị Hồng V là người được cam kết ủy quyền).
Tại bản sơ thẩm số 02/2017/HC-ST ngày 17 tháng 4 năm 2017 của Tòa án nhân dân Quận 5 đã tuyên xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị L1.
Ngày 24/4/2017, bà Đặng Thị L1 có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Ngày 26/4/2017, tất cả người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Ngày 23/5/2017, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý vụ án theo thủ tục phúc thẩm, vụ án thụ lý số 24/2017/TLPT-HC.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, ngày 01/6/2017, Ủy ban nhân dân Quận X ban hành Quyết định số 2498/QĐ-UBND về điều chỉnh, bổ sung Quyết định số 2166/QĐ-UBND ngày 05/6/2007.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Trần Thị Hồng V là người đại diện theo ủy quyền người khởi kiện trình bày: ngày 01/6/2017 Ủy ban nhân dân Quận X ban hành Quyết định số 2498/QĐ-UBND về điều chỉnh, bổ sung Quyết định số2166/QĐ-UBND ngày 05/6/2007 của Ủy ban nhân dân Quận X về thay thế Quyết định số 623/QĐ-UBND ngày 05/02/2007 của Ủy ban nhân dân Quận X về việc bồi thường, hỗ trợ thiệt hại giải phóng mặt bằng căn nhà Phường Y, Quận X của bà Đặng Thị L1. Bà L1 nhận thấy nội dung của Quyết định số 2498/QĐ-UBND ngày 01/6/2017 của Ủy ban nhân dân Quận X đã giải quyết được quyền lợi của gia đình bà. Vì vậy, bà Đặng Thị L1 xin rút đơn khởi kiện và rút yêu cầu kháng cáo. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Liên H, bà Trần Thị Bích T1, bà Trần Kim T2, bà Trần Thị Hồng V, bà Trần Hồng N, ông Đinh Quang K và bà Nguyễn Thùy A đồng ý rút yêu cầu kháng cáo. Vụ án không có người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
Xét việc rút đơn khởi kiện, rút yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện và việc tất cả người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan rút yêu cầu kháng cáo là hoàn toàn tự nguyện, không ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Vì vậy căn cứ khoản 1 Điều 235 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án.
Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Về án phí sơ thẩm: Giữ nguyên án phí hành chính sơ thẩm.
Về án phí phúc thẩm: Người khởi kiện bà Đặng Thị L1 phải chịu 150.000 đồng án phí hành chính phúc thẩm, người có quyền lợi nghĩa vụ, liên quan bà Trần Thị Liên H, bà Trần Thị Bích T1, bà Trần Kim T2, bà Trần Thị Hồng V, bà Trần Hồng N, ông Đinh Quang K và bà Nguyễn Thùy A mỗi người phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 235 Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
Căn cứ khoản 4, khoản 5 Điều 34 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án,
Xử :
1. Hủy bản án hành chính sơ thẩm số: 02/2017/HC-ST ngày 17 tháng 4 năm 2017 của Tòa án nhân dân Quận 5 và đình chỉ giải quyết vụ án hành chính phúc thẩm thụ lý số: 24/2017/TLPT-HC ngày 23 tháng 5 năm 2017 về “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai về bồi thường”.
2. Về án phí:
Án phí hành chính sơ thẩm: Bà Đặng Thị L1 phải chịu 200.000 đồng, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AB/2010/00778 ngày 04/012012 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 5. Bà Đặng Thị L1 đã nộp đủ án phí hành chính sơ thẩm.
Án phí hành chính phúc thẩm:
Bà Đặng Thị L1 phải chịu 150.000 đồng, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí hành chính phúc thẩm đã nộp theo biên lai số AG/2014/0005135 ngày 24/4/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 5. Hoàn trả cho bà Đặng Thị L1 150.000 đồng tiền tạm ứng án phí hành chính phúc thẩm còn lại theo biên lai trên. Bà Đặng Thị L1 đã nộp đủ án phí hành chính phúc thẩm.
Bà Trần Thị Liên H, bà Trần Thị Bích T1, bà Trần Kim T2, bà Trần Thị Hồng V, bà Trần Hồng N, ông Đinh Quang K và bà Nguyễn Thùy A mỗi người phải chịu 300.000 đồng, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo các biên lai tương ứng số AG/2014/0005152, AG/2014/0005151, AG/2014/0005150, AG/2014/0005149, AG/2014/0005148, AG/2014/0005147, AG/2014/0005146 ngày 27/4/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 5. Bà Trần Thị Liên H, bà Trần Thị Bích T1, bà Trần Kim T2, bà Trần Thị Hồng V, bà Trần Hồng N, ông Đinh Quang K và bà Nguyễn Thùy A đã nộp đủ án phí hành chính phúc thẩm.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 731/2017/HC-PT ngày 15/08/2017 về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai bồi thường
Số hiệu: | 731/2017/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 15/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về