TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 72/2021/HS-ST NGÀY 04/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Vào ngày 04/6/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 48/2021/HSST ngày 23/4/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2021/QĐXXST-HS ngày 14/5/2021 đối với bị cáo:
Nguyễn Quốc H; Giới tính: Nam; Sinh năm 1994 tại Đồng Nai.
Nơi cư trú: ấp 3, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 06/12.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân Tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.
Con ông Nguyễn Ngọc H1, sinh năm 1951 và bà Hoàng Thị Th, sinh năm 1958.
Vợ, con: Chưa có.
Tiền án: Có 02 tiền án, + Ngày 22/7/2015, bị Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm 04 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 158/2015/HSPT.
+ Ngày 09/11/2017, bị Toà án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 130/2017/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/02/2018.
Tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 19/06/2020, bị Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm tù, về tội: “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 22/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/01/2021.
Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/01/2021 cho đến nay ( Có mặt tại phiên tòa) * Bị hại: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1968 (có mặt) Địa chỉ: ấp 1, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai * Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Anh Nguyễn Thanh Ư, sinh năm 1970 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 3, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai * Người làm chứng:
1. Anh Nguyễn Quốc H1, sinh năm 1988 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 3, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai
2. Anh Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1983 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 3, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ ngày 31/3/2019, Nguyễn Quốc H rủ Nguyễn Xuân H2, sinh ngày 18/5/2004 và Ngô Quang Th1, sinh ngày 01/5/2002, cả hai cùng trú tại ấp 3, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai, cùng đi trộm cắp điều thì H2 và Th1 đồng ý. Thực hiện ý định, H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Technic, không có biển số chở H2 và Th1 đến khu vực rẫy điều thuộc ấp Suối Đục, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, khi đi ngang rẫy điều thì cả ba phát hiện thấy 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Taurus, màu đen biển số 60B5-023.55 của bà Nguyễn Thị T không có người trông coi (trên xe để sẵn chìa khóa). Lúc này, H bảo rằng có ai dám vô lấy (tức ý vào trộm cắp chiếc xe) thì H2 và Th1 do sợ bị phát hiện nên nói với H rằng H vào lấy đi. Nghe vậy, H bảo H2 và Th1 đi ra cách nơi để xe khoảng 50m để H vào trộm cắp xe, H dặn H2 và Th1 đứng đợi H, nếu H không lấy được xe thì chở H về nếu trộm được thì mỗi người đi một hướng để tránh bị phát hiện.
Nghe H nói vậy thì H2 và Th1 đồng ý. H lén lút tiếp cận trộm cắp xe mô tô nói trên của bà T rồi điều khiển xe chạy theo Quốc lộ 1A đến khu vực nghĩa địa thuộc ấp 3, xã Xuân H cất giấu xe, còn Th1 chở H2 về tại tiệm internet 60 thuộc xã Xuân Hưng.
Sau đó, H đi bộ đến quán nét nói H2 đi mua khóa mở ốc số 10 và dặn đem vào nghĩa trang ấp 3, xã Xuân Hưng cho H. Sau khi mua khóa thì H2 đem vào nghĩa trang cho H. Tại đây, H tháo biển số xe Taurus vừa trộm cắp được và bảo H2 chạy xe Exciter của H, còn H điều khiển xe mô tô vừa trộm cắp được, cả hai cùng chạy xe đến Trung tâm y tế huyện Xuân Lộc và gửi xe tại đây. Sau đó, H2 về trước còn H đem xe đi tiêu thụ. Khoảng 20 giờ, cùng ngày, anh Nguyễn Quốc H1 (là anh ruột của H) và anh Nguyễn Ngọc T nghe thông tin về vụ trộm cắp tài sản và nghi vấn H đã thực hiện nên đã điện thoại hỏi H thì H thừa nhận đã trộm cắp xe mô tô nói trên của chị Thơm nên anh H1 và anh T vận động H trả lại xe mô tô đã trộm cắp cho chị Thơm. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, H hẹn gặp anh H1 tại ngã 3 Suối Cát, thuộc xã Suối Cát, huyện Xuân Lộc và đưa xe mô tô trên (nhưng không có biển số) cho anh H1 rồi bỏ trốn. Sau đó, anh H1 đưa xe cho anh T, nhờ anh T trả lại cho người bị hại và trình báo cơ quan công an. Ngoài ra, quá trình điều tra bà Nguyễn Thị T còn khai nhận bị mất số tiền 37.000.000 đồng, 01 lắc tay bằng vàng 18K trọng lượng 05 chỉ, 01 dây chuyền có mặt hình phật bằng vàng 18K trọng lượng 09 chỉ, 06 nhẫn bằng vàng 24K trọng lượng 01 cây 07 chỉ để trong cốp xe mô tô bị H chiếm đoạt.
Tại Kết luận định giá tài sản định giá tài sản số 35/KL-HĐĐG ngày 22/5/2019, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Xuân Lộc kết luận tổng giá trị sử dụng còn lại của 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu Yamaha, loại Taurus, màu đen, biển số 60B5-023.55 là 8.000.000 (Tám triệu đồng).
* Vật chứng vụ án:
- 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Taurus, màu đen, số máy 16S2-065646, số khung 6S209Y065645, không có biển số cùng 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô và 01 bóp da.
- 01 xe mô tô nhãn hiệu Technic, không có biển số.
* Trách nhiệm dân sự:
Bà Nguyễn Thị T yêu cầu bị cáo bồi thường tài sản bị chiếm đoạt gồm số tiền 37.000.000 đồng, 01 lắc tay bằng vàng 18K trọng lượng 05 chỉ, 01 dây chuyền có mặt hình phật bằng vàng 18K trọng lượng 09 chỉ, 06 nhẫn bằng vàng 24K trọng lượng 01 cây 07 chỉ.
Tại bản cáo trạng số: 59/CT-VKSXL ngày 22/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc truy tố bị cáo Nguyễn Quốc H về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo bản cáo trạng và đề nghị xử phạt bị cáo H từ 01 năm 08 tháng đến 02 năm tù. Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Xuân Lộc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Quốc H khai nhận: Vào khoảng 15 giờ ngày 31/3/2019, tại khu vực rẫy điều thuộc ấp Suối Đục, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Quốc H đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Taurus, màu đen, biển số 60B5-023.55 của chị Nguyễn Thị T. Trị giá tài sản bị chiếm đoạt là 8.000.000 đồng. Bị cáo H phạm tội thuộc trường hợp tái phạm. Do đó, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Quốc H phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015
[3] Tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự
[4] Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã được thu hồi trả cho người bị hại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nhận thấy: Bị cáo là người đã thành niên, có đầy đủ khả năng nhận thức về hành vi của mình, nhưng do lười lao động mà bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản để kiếm tiền tiêu xài. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo đã từng bị kết án về hành vi trộm cắp tài sản, nhưng chưa được xóa án tích. Vì vậy, phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm đối với bị cáo để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[6] Vật chứng vụ án: Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Taurus, màu đen, số máy 16S2-065646, số khung 6S209Y065645, không có biển số cùng 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô và 01 bóp da. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc đã ra Quyết định xử lý vật chứng và trả lại xe cùng giấy tờ xe và 01 bóp da cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Nguyễn Thị T là phù hợp nên không xem xét.
- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Technic, không có biển số. Quá trình điều tra chưa xác định được chủ sở hữu của xe mô tô trên nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc tiếp tục điều tra xác minh nguồn gốc xe và đề nghị xử lý sau là phù hợp.
[7] Trách nhiệm dân sự: Đối với số tài sản bà Nguyễn Thị T khai nhận để trong cốp xe mô tô bị H chiếm đoạt gồm số tiền 37.000.000 đồng, 01 lắc tay bằng vàng 18K trọng lượng 05 chỉ, 01 dây chuyền có mặt hình phật bằng vàng 18K trọng lượng 09 chỉ, 06 nhẫn bằng vàng 24K trọng lượng 01 cây 07 chỉ. Quá trình điều tra không đủ cơ sở xác định H trộm cắp những tài sản trên của bà T nên không có căn cứ để xem xét.
[8] Đối với Nguyễn Xuân H2 và Ngô Quang Th1 đăng ký khai sinh quá hạn, quá trình điều tra xác minh H2 và Th1 không có mặt tại địa phương, không triệu tập làm việc được nên chưa đủ căn cứ để xác định độ tuổi và có đồng phạm với Nguyễn Quốc H về hành vi trộm cắp tài sản hay không. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc sẽ tiếp tục điều tra, xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ và đề nghị xử lý sau .
[9] Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận .
[10] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Quốc H phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc H phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt: bị cáo Nguyễn Quốc H 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/01/2021.
2. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về Án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Nguyễn Quốc H phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án 72/2021/HS-ST ngày 04/06/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 72/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về