Bản án 72/2020/HS-ST ngày 30/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 72/2020/HS-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 63/2020/TLST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Văn V, sinh năm 1968 tại Hải Phòng. Nơi ĐKHKTT: Số 130 H, phường H, quận L, thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: Tổ 20, phường V, quận L, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: lớp 8/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn P (đã chết) và bà Nguyễn Thị T(đã chết); có vợ là Nguyễn Thị H và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt ngày 03 tháng 6 năm 2020, tạm giam ngày 11 tháng 6 năm 2020; có mặt.

Người chứng kiến: Chị Đỗ Thị C và anh Nguyễn Quang H; đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 03 tháng 6 năm 2020 tại cửa nhà số 18/442 thôn A, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng tổ công tác thuộc đoàn đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 01 Bộ tư lệnh cảnh sát biển kết hợp với công an xã A, huyện A phát hiện, kiểm tra và bắt quả tang đối với Trần Văn V có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu được gồm:

+ Một túi nilon màu trắng kích thước 07 x 11 cm màu trắng, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng trước mũi chân phải của Trần Văn V + 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha biển số 15H1 – 26221;

+ 01 điện thoại di động Nokia màu đen dạng bàn phím số đã qua sử dụng và số tiền 20.000 đồng.

Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng, đưa Trần Văn V và toàn bộ vật chứng về trụ sở Công an xã A, huyện A lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Tại kết luận giám định số 316/KLGĐ - MT ngày 03/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Trần Văn V gửi giám định là ma túy, có khối lượng 4,62 gam là loại Methamphetamine.

Khám xét khẩn cấp nơi ở, đồ vật của Trần Văn V tại tổ 20, phường V, Quận L, thành phố Hải Phòng Cơ quan điều tra Công an huyện An Dương không thu giữ đồ vật, tài liệu gì khác.

Tại Cáo trạng số 63/CT –VKS ngày 09 tháng 9 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương truy tố bị cáo Trần Văn V về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy ” theo điểm c, Khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Trần Văn V khai nhận: Do bản thân bị nghiện ma túy nên vào khoảng 22 giờ ngày 02 tháng 6 năm 2020 bị cáo điều khiển xe máy không nhớ biển số mượn của D đến đường tàu C, Hải Phòng mua 2.800.000 (hai triệu tám trăm nghìn đồng) tiền ma túy đá của một người đàn ông, bị cáo không biết tên, tuổi địa chỉ cụ thể, sau đó về cất giấu ở vườn trước cửa nhà trọ của bị cáo. Đến khoảng 12 giờ 50 phút ngày 03 tháng 6 năm 2020, bị cáo ra vườn lấy số ma túy trên điều khiển xe máy biển số 16H1 – 26221 chở Đỗ Thị C (C ở cùng nhà và chung sống với bị cáo như vợ chồng) đi uống nước. Bị cáo vừa điều khiển xe chở C vừa cầm ma túy bên tay phải (C không biết bị cáo cất giấu ma túy tại nhà trọ và mang ma túy khi chở C) đến đầu đường L tiếp giáp với đường T thì C xuống xe ngồi uống nước, bị cáo đi ra đường L khu vực nhà máy bia cũ với mục đích tìm chỗ sử dụng ma túy nhưng không tìm được nên quay về đón C tại đầu đường T. Bị cáo chở C đi đến đường số nhà 18/442 đường A, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng thì bị lực lượng Cảnh sát biển kiểm tra, bắt quả tang bị cáo hoảng sợ quá nên vứt túi ma túy đá từ tay phải xuống đất cách bàn chân phải của bị cáo khoảng 30 cm. Lực lượng cảnh sát biển đưa bị cáo về trụ sở công an xã A lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật nêu trên. Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện An Dương bị cáo khẳng định gói ma túy đá gói bằng túi nilong màu trắng kích thước 07 x 11 cm là mà lực lượng Cảnh sát biển thu dưới đất trong quá trình bắt giữ bị cáo là của bị cáo mua tại đường tàu C về để sử dụng.

Đối với số tiền 2.800.000 đồng bị cáo sử dụng để mua ma túy, bị cáo khai là do bị cáo lao động tự do mà có. Bị cáo nhận thức hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình phạt: Áp dụng điểm c, Khoản 1, Điều 249, điểm s, Khoản 1; Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Trần Văn V với mức án từ 04 (bốn) năm đến 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo Trần Văn V.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Khoản 1; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư dán kín mép, bên trong chứa số ma túy hoàn lại sau giám định và toàn bộ vỏ túi chứa mẫu vật gửi giám định, trên có dấu niêm phong của Cơ quan giám định số 316/KLGĐ-MT có chữ ký của Trần Văn V và các thành phần tham gia niêm phong; tạm giữ 01 điện thoại Nokia, màu đen dạng bàn phím; số tiền 20.000 đồng của bị cáo để đảm bảo thi hành án.

- Về án phí: Bị cáo Trần Văn V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong vụ án này còn có đối tượng người đàn ông bán ma túy cho Trần Văn V tại khu vực đường tàu C vào tối ngày 02 tháng 6 năm 2020 hiện chưa xác định được lai lịch, tên tuổi cụ thể nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, điều tra, xử lý sau.

Đối với Đỗ Thị C là người sống cùng bị cáo Việt như vợ chồng nhưng không biết bị cáo cất giấu ma túy ở nhà cũng như trong quá trình chở Cúc đi chơi nên không có cơ sở xử lý Cúc.

Đối với chiếc mô tô biển số 15H1 – 262.21 thu giữ của Trần Văn V. Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện An Dương đã tiến hành giám định, xác định nguồn gốc và chủ sở hữu là chị Dương Thị D, sinh năm 1978, ở thôn N, xã K, huyện T, thành phố Hải Phòng. Hiện tại chị D vắng mặt tại địa phương nên chưa lấy được lời khai của D. Tại cơ quan Cảnh sát điều tra V khai nhận mượn chiếc xe trên của D, ở xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng, hiện chưa xác định được tên tuổi, địa chỉ của D nên tiếp tục xác minh, xử lý sau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

- Về tính hợp pháp của các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:

[1] Các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện A, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện A và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Về chứng cứ xác định bị cáo có tội và tội danh:

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi cất giữ trái phép chất ma túy là Heroine để sử dụng.

[3] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với chính lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp vời lời khai của người làm chứng, phù hợp với vật chứng đã thu giữ là gói ma túy đá gói bằng túi nilong màu trắng kích thước 07x11chứa chất ma túy Methamphetamine, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang được lập vào hồi 13 giờ 50 phút ngày 03tháng 6 năm 2020 tại Công an xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng.

[4] Khối lượng chất ma túy thu giữ của bị cáo đã được cơ quan giám định tiến hành giám định. Tại Kết luận giám định số 316/KLGĐ-MT ngày 03 tháng 6 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: “Chất bột màu trắng thu giữ của Trần Văn V gửi giám định là ma túy, có khối lượng 4,62gam, là loại Methamphetamine”.

[5] Tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi, bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp. Như vậy có đủ cở sở kết luận, bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm c, Khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự.

- Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội; về nhân thân và các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

[6] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý Nhà nước về quản lý chất gây nghiện, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác và lan truyền bệnh dịch nguy hiểm cho con người nên cần phải xử lý nghiêm để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[7] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Văn V không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[8] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[9] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5, Điều 249 Bộ luật Hình sự, bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, xét bị cáo không có tài sản và thu nhập nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[10] Về xử lý vật chứng:

Vật chứng của vụ án hiện đang thu giữ là khối lượng chất ma túy Methamphetamine đã thu giữ của bị cáo. Sau khi cơ quan giám định lấy mẫu giám định, khối lượng còn lại đã được niêm phong và toàn bộ vỏ túi chứa mẫu vật gửi giám định; 01 điện thoại Nokia, màu đen dạng bàn phím; số tiền 20.000 đồng. Đối với khối lượng chất ma túy Methamphetamine là vật Nhà nước cấm lưu hành và toàn bộ vỏ túi chứa mẫu vật gửi giám định bị cáo dùng để cất giấu ma túy không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu huỷ theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự; Khoản 1 Điều 106; điểm a, Khoản 2, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Còn 01 điện thoại Nokia, màu đen dạng bàn phím; số tiền 20.000 đồng là tài sản của bị cáo nên trả lại bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[11] Về các vấn đề khác:

Đối với chiếc mô tô biển số 15H1 – 262.21 thu giữ của Trần Văn V. Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện An Dương đã tiến hành giám định, xác định nguồn gốc và chủ sở hữu là chị Dương Thị D, sinh năm 1978, ở thôn N, xã K, huyện T, thành phố Hải Phòng. Hiện tại chị D vắng mặt tại địa phương nên chưa lấy được lời khai của D. Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Việt khai nhận mượn chiếc xe trên của D, ở xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng, hiện chưa xác định được tên tuổi, địa chỉ của D. Trong vụ án này còn có đối tượng người đàn ông bán ma túy cho Trần Văn V tại khu vực đường tàu Cầu Đất vào tối ngày 02 tháng 6 năm 2020 hiện chưa xác định được lai lịch, tên tuổi cụ thể nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, điều tra, xử lý sau là có căn cứ.

Đối với Đỗ Thị C là người sống cùng bị cáo V như vợ chồng nhưng không biết bị cáo cất giấu ma túy ở nhà cũng như trong quá trình chở C đi chơi nên không có cơ sở xử lý C.

- Về án phí: Bị cáo Trần Văn V phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm c, Khoản 1, Điều 249; Điều 38; điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Văn V 04 (bốn) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 03 tháng 6 năm 2020.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo Trần Văn V.

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Khoản 1 Điều 106; điểm a, Khoản 2, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu huỷ các vật chứng gồm: 01 phong bì thư dán kín mép, bên trong chứa số ma túy hoàn lại sau giám định và toàn bộ vỏ túi chứa mẫu vật gửi giám định, trên có dấu niêm phong của Cơ quan giám định số 316/KLGĐ-MT có chữ ký của Trần Văn V. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Nokia, màu đen dạng bàn phím và số tiền 20.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Các vật chứng nêu trên đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A, theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 09 tháng 9 năm 2020 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương và Cơ quan điều tra Công an huyện An Dương Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Văn V phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 72/2020/HS-ST ngày 30/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:72/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về