Bản án 72/2020/HS-ST ngày 29/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 72/2020/HS-ST NGÀY 29/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 51/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 172/2020/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Bá T, sinh năm 1981, tại thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; Đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ 17, khu M, phường B, thành phố V, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Bá T1 và bà Trần Thị C; có vợ và 02 con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số 137/2011/HSST ngày 21/9/2011 Tòa án nhân dân huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội xử phạt Nguyễn Bá T 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 05/9/2011, T chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/11/2013, thi hành xong án phí ngày 20/3/2012.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 09/01/2020 đến ngày 12/01/2020 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Phú Thọ, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 15 phút ngày 09/01/2020, tại tổ 18, khu M, phường B, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố Việt Trì phát hiện Phạm Văn T2, sinh năm 1985, đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 17,khu M, phường B, thành phố V, tỉnh Phú Thọ đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng. T2 tự giác giao nộp 01 gói nilon màu xanh bên trong có 01 gói giấy có đặc điểm mặt ngoài màu trắng, mặt trong màu vàng, bên trong có chứa chất bột cục màu trắng, T2 khai nhận đó là ma túy Heroine. Tổ công tác đã lập biên bản vi phạm hành chính, thu giữ và niêm phong gói ma túy có đặc điểm như đã nêu trên. Đồng thời, thu giữ của T2; 01 điện thoại di động đã cũ, vỏ màu trắng, nhãn hiệu OPPO có số imei1: 861516040281514, số imei2: 861516040281506 kèm sim trong máy số 0377932234 và số 0916873465.

Tại cơ quan điều tra T2 khai: Về nguồn gốc gói ma túy trên là do T2 vừa mua được của Nguyễn Bá T, sinh năm 1981, đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 17,khu M, phường B, thành phố V, tỉnh Phú Thọ vào khoảng 09 giờ ngày 09/01/2020 tại tổ 18, khu M, phường B, thành phố V, tỉnh Phú Thọ với giá 200.000 đồng.

Căn cứ lời khai của T2, cùng ngày 09/01/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra T hành khám xét khẩn cấp nơi ở, đồ vật của Nguyễn Bá T. Quá trình khám xét đã thu giữ và niêm phong vật chứng gồm: 01 gói giấy mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng bên trong có chứa chất bột cục màu trắng, T khai nhận đấy là gói ma túy heroine của T, mục đích để sử dụng; ngoài ra Cơ quan điều tra còn thu giữ của T 01 điện thoại di động nhãn hiệu BUK vỏ màu đen đã cũ, có số imei1: 980028002614076, imei2: 980028002656077 kèm sim trong máy số 0357569616; 01 lưỡi dao lam nhãn hiệu CROMA đã cũ.

Cơ quan Cảnh sát điều tra ra Quyết định trưng cầu giám định số chất bột cục màu trắng thu giữ của Phạm Văn T2 và Nguyễn Bá T. Tại bản kết luận giám định số 140/KLGĐ ngày 14/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ kết luận:

Mẫu chất bột cục màu trắng bên trong bì niêm phong ghi vật chứng thu giữ của Phạm Văn T2 gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,007 gam, loại: Heroine.

Mẫu chất bột cục màu trắng bên trong bì niêm phong ghi vật chứng thu giữ của Nguyễn Bá T gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,009 gam, loại: Heroine.

* Heroine: số thứ tự 9, Danh mục I, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.” Mẫu vật đã sử dụng hết trong quá trình giám định. Hoàn lại bao gói gửi đến giám định.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Bá T đã thừa nhận việc bán ma túy cho Phạm Văn T2 vào ngày 09/01/2020 như T2 đã khai báo, về nguồn gốc ma túy bị thu giữ khi khám xét khẩn cấp và nguồn gốc ma túy T bán cho T2, T khai nhận: Vào khoảng 08 giờ 30 phút ngày 09/01/2020 T đi qua cổng Công ty gang thép thuộc phường B, thành phố V, tỉnh Phú Thọ thì gặp Phạm Văn T2. T2 hỏi mua của T 200.000 đồng tiền ma túy heroine. T đồng ý và cầm tiền T2 đưa cho rồi bảo T2 ở đó chờ. Sau đó T đi nhờ xe của người đi đường xuống khu vực cánh đồng thuộc xã Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc để tìm mua ma túy. Tại đây, T hỏi và mua được 200.000 đồng tiền ma túy heroine của một người phụ nữ khoảng 50 tuổi (T không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể). Sau khi mua được ma túy T đi bộ ra khu vực nghĩa trang ở gần đó và mở gói ma túy vừa mua được tách lấy một phần ma túy để sử dụng, phần còn lại T tách ra làm hai phần, 01 phần được gói nilon màu xanh bên trong có 01 gói giấy có đặc điểm mặt ngoài màu trắng, mặt trong màu vàng, 01 phần được gói bằng giấy mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng đúc vào túi quần rồi đi về. Trên đường T đi về T2 có gọi từ số máy 0377932234 của T2 đến số 0357569616 của T để hỏi T đã về chưa? Có ma túy không? T trả lời là có. T đến chỗ hẹn gặp T2 và đưa cho T2 gói ma túy có được gói nilon màu xanh bên ngoài. T2 cầm gói ma túy vừa mua được đi tìm nơi sử dụng thì bị tổ Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố Việt Trì phát hiện, bắt quả tang như đã nêu trên.

Tại Quyết định số 39 ngày 16 tháng 3 năm 2020, Công an thành phố Việt Trì ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Phạm Văn T2 về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm a khoản 2 Điều 21 Nghị định 167/CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ, số tiền là 1.500.000đ. Công an thành phố Việt Trì đã trả lại cho Phạm Văn T2 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu trắng số imei1 861516040281514, imei2 861516040281506 kèm 02 sim trong máy số 0377932234 và 0916873465, T2 đã nhận lại chiếc điện thoại này theo biên bản giao nhận đồ vật tài liệu ngày 09 tháng 01 năm 2020.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã truy tố. Bị cáo khẳng định Phạm Văn T2 đã sử dụng điện thoại để liên lạc với bị cáo để trao đổi mua ma túy, thừa nhận tại Cơ quan điều tra có đối chất với T2 và cả hai đều thừa nhận liên lạc bằng điện thoại với nhau để mua ma túy.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã truy tố.

Bản Cáo trạng số: 66/CT-VKS-VT ngày 30 tháng 3 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ truy tố bị cáo Nguyễn Bá T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, không bổ sung hoặc thay đổi nội dung cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Bá T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án xử phạt bị cáo Nguyễn Bá T từ 33 (Ba mươi ba) tháng đến 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/01/2020.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự thì bị cáo có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa xác định bị cáo không có tài sản gì khác có giá trị ngoài đồ dùng sinh hoạt thiết yếu cá nhân nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo T.

Về vật chứng vụ án:

-Tịch thu tiêu hủy:

+ 02 bì niêm phong có số 140/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Phú Thọ hoàn trả mẫu vật sau giám định.

+ 01 sim trong máy điện thoại đã thu giữ của T số 0357569616; 01 lưỡi dao lam nhãn hiệu CROMA đã cũ của bị cáo T - Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước của bị cáo T 01 điện thoại di động nhãn hiệu BUK vỏ màu đen đã cũ, có số imei1: 980028002614076, imei2:980028002656077.

- Buộc bị cáo T phải nộp 200.000 đồng là tiền do bán ma túy mà có để sung vào ngân sách nhà nước.

Về án phí: buộc bị cáo T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo nhận thức hành vi của mình là sai, bị cáo ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

nh vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Việt Trì, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố Tụng hình sự.Bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Các quyết định tố tụng của các cơ quan T hành tố tụng đã được tống đạt cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đúng thời hạn do pháp luật quy định nên các hành vi, quyết định tố tụng khác của cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đều hợp pháp.

Tuy nhiên, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Việt Trì về việc trả lại đồ vật là 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu trắng số imei1861516040281514, imei2 861516040281506 kèm 02 sim trong máy số 0377932234 và 0916873465 cho Phạm Văn T2 là chưa phù hợp. Bởi lẽ đây là vật chứng của vụ án, là phương tiện được bị cáo và T2 đều thừa nhận sử dụng để liên lạc trao đổi, mua bán ma túy với nhau. Do đó việc trả lại vật chứng này của Cơ quan điều tra là chưa phù hợp, không đáp ứng yêu cầu của công tác đấu tranh, phòng chống các tội phạm về ma túy trong tình hình hiện nay nên cần rút kinh nghiệm.

[2] Về nội dung:

Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Nguyễn Bá T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, thừa nhận nội dung cáo trạng truy tố là đúng.

Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay đều thống nhất, phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 9 giờ ngày 09/01/2020, tại tổ 18, khu M, phường B, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, Nguyễn Bá T đã thực hiện hành vi bán trái phép 0,007 gam ma túy Heroine cho Phạm Văn T2 với giá 200.000 đồng. Phạm Văn T2 cầm gói ma túy mua được của Nguyễn Bá T đang tìm nơi để sử dụng thì bị Cơ quan Công an phát hiện, bắt quả tang hồi 9 giờ 15 phút cùng ngày tại tổ 18, khu M, phường B, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ và thu giữ vật chứng.

Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, nội dung điều luật quy định:

Tại Khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

Về tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội tại địa phương.

Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện nên bị cáo phải chịu hậu quả về hành vi phạm tội của mình.

Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng cho bị cáo: Trong giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bố đẻ bị cáo là người có công với cách mạng, là thương binh loại A. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Do đó, cần thiết phải xử phạt bị cáo nghiêm khắc bằng hình phạt tù, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội do bị cáo gây ra mới có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để giảm nhẹ một phần mức hình phạt tù cho bị cáo thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật đối với người phạm tội.

- Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự: “5. Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa xác định bị cáo không có tài sản gì khác có giá trị ngoài đồ dùng sinh hoạt thiết yếu cá nhân nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo T.

Về vật chứng của vụ án:

- Ma túy là vật nhà nước cấm lưu hành, vì vậy cần tịch thu tiêu hủy:

+ 02 bì niêm phong có số 140/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ hoàn trả mẫu vật sau giám định.

+ 01 sim trong máy điện thoại đã thu giữ của T số 0357569616 và 01 lưỡi dao lam nhãn hiệu CROMA đã cũ đã thu giữ của T là những vật không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu BUK vỏ màu đen đã cũ của bị cáo T, có số imei1: 980028002614076, imei2: 980028002656077 là phương tiện dùng để liên lạc mua bán ma túy nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- Buộc bị cáo T phải nộp 200.000 đồng là tiền do bán ma túy mà có để sung vào ngân sách nhà nước.

Về nguồn gốc số Ma túy: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, T khai nhận không biết họ tên và địa chỉ cụ thể của người bán ma túy cho T ở đâu. Ngoài lời khai của T, không có tài liệu nào khác nên Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để xác định người bán ma túy cho T là phù hợp.

Đối với Phạm Văn T2 đã có hành vi mua trái phép chất ma túy để sử dụng, quá trình điều tra xác định T2 chưa có tiền án, tiền sự về tội tàng trữ, vận chuyển mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy. Nên ngày 16/3/2020 Công an thành phố Việt Trì đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T2 về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là phù hợp.

[3] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Bá T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Xét đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ và đúng theo quy định của pháp luật nên cần được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1.Tuyên bố bị cáo Nguyễn Bá T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Bá T 33 (Ba mươi ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09 tháng 01 năm 2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo T.

2. Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy:

+ 02 bì niêm phong có số 140/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ hoàn trả mẫu vật sau giám định.

+ 01 lưỡi dao lam nhãn hiệu CROMA đã cũ, 01 sim số 0357569616 trong máy điện thoại trong chiếc điện thoại đã thu giữ của bị cáo Nguyễn Bá T.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu BUK vỏ màu đen đã cũ, có số imei1: 980028002614076, imei2:980028002656077của bị cáo Nguyễn Bá T.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 31/3/2020 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Việt Trì và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì).

- Buộc bị cáo T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) để sung vào ngân sách nhà nước.

3. Về án phí:

Buộc bị cáo Nguyễn Bá T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 72/2020/HS-ST ngày 29/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:72/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về