Bản án 72/2020/HS-ST ngày 28/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 72/2020/HS-ST NGÀY 28/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 28 tháng 05 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 59/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 04 năm 2020 theo Quyết định đưa ra xét xử số 65/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 05 năm 2020, đối với bị cáo:

Tướng Văn T, sinh năm 1992; đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Thôn P, xã C, huyện V, tỉnh Y; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Dao; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 4/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên cha: Tướng Văn M (đã chết); họ tên mẹ: Đinh Thị P (đã chết); gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ ba; họ tên vợ: Hoàng Thị C; bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2013 và con nhỏ sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 19/12/2019, bị tạm giữ từ ngày 20/12/2019 đến ngày 29/12/2019 hủy bỏ biện pháp tạm giữ. Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo là: Ông Lê Quang Đạo – Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Hà Nội, chi nhánh số 11, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 21 giờ 10 phút, ngày 19/12/2019, tổ công tác Công an xã Yên Thường, thuộc Công an huyện Gia Lâm phối hợp cùng tổ công tác 141–Y20, Công an thành phố Hà Nội làm nhiệm vụ tại khu vực Dốc Lã, Yên Thường, Gia Lâm, Hà Nội phát hiện Tướng Văn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Tướng Văn T.

Về vật chứng thu giữ, gồm:

- Thu giữ của Tướng Văn T: 05 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng; 05 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng; 01 điện thoại di động OPPO màu trắng, đã qua sử dụng; 01 ví giả da màu nâu và số tiền 1.350.000 đồng (Một triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng); 01 chiếc xe máy kiểu dáng Dream, nhãn hiệu Boss, màu nâu BKS 35N8-5781, số khung: 002979, số máy: 002979 và 01 đăng ký xe máy BKS 35N8-5781.

Tại Kết luận giám định số 8417/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội ngày 29/12/2019 kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 05 gói giấy bạc màu trắng đều là ma túy loại Heroin, tổng khối lượng:

0,883 gam; chất bột màu trắng bên trong 05 gói giấy bạc màu vàng đều là ma túy loại Heroin, tổng khối lượng: 0,673 gam.

Tại cơ quan điều tra, Tướng Văn T khai nhận: T là đối tượng nghiện chất ma túy. Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 19/12/2019, T điều khiển xe máy nhãn hiệu Boss, BKS: 35N8- 5781 từ Ba Đình, Hà Nội đi đến khu vực Từ Sơn, Bắc Ninh để mua ma túy về sử dụng. Khi đến khu vực Từ Sơn, Bắc Ninh, T đi vào một ngõ nhỏ, đi đến một căn nhà có cổng sắt đóng kín, T đưa 1.000.000 (Một triệu) đồng qua ô cửa cổng, mua ma tuý được để trong 05 gói giấy bạc màu trắng và 05 gói giấy bạc màu vàng, bên trong chứa chất bột màu trắng, của một người không rõ nhân thân. Sau khi mua được ma túy, T cất 10 gói ma túy vào túi quần phía trước bên phải. Sau đó T điều khiển xe máy đi về hướng Hà Nội để tìm nơi sử dụng. Khi đi đến khu vực điểm đăng ký xe ô tô số 3 – Phòng cảnh sát giao thông, thuộc địa phận Dốc Lã, Yên Thường, Gia Lâm, Hà Nội thì T bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt giữ cùng vật chứng nêu trên.

Đối với người bán ma túy cho Tướng Văn T do không xác định được nhân thân nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Boss, màu nâu BKS: 35N8- 5781 thu giữ của T, quá trình điều tra đã xác định đăng ký xe mang tên Dương Tuấn C, sinh năm 1975; trú tại: Như Hòa, Kim Sơn, Ninh Bình. Năm 2012, anh C đã bán xe cho một người không rõ nhân thân và hiện nay xác định được chủ sở hữu là chị Hoàng Thị C là vợ của bị cáo Tú. Ngày 19/12/2019, chị C cho T mượn xe nhưng không biết T sử dụng vào việc đi mua ma túy. Do vậy, Cơ quan điều tra, Công an huyện Gia Lâm đã trao trả chiếc xe nói trên và đăng ký xe cho chị Hoàng Thị C.

Đối với chiếc điện thoại di động di động OPPO màu trắng, đã qua sử dụng, quá trình xác minh thuộc sở hữu của chị Hoàng Thị C là vợ của bị cáo Tú. Tháng 11/2019, chị Cơ cho T mượn chiếc điện thoại để hàng ngày sử dụng liên lạc, không liên quan tới hành vi phạm tội. Do vậy Cơ quan điều tra, Công an huyện Gia Lâm đã trao trả chiếc điện thoại trên cho chị C.

Đối với 01 ví giả da màu nâu và số tiền 1.350.000 đồng thu giữ là của T, không liên quan hành vi phạm tội của bị cáo.

Tại bản Cáo trạng số 57/CT-VKSGL ngày 09 tháng 04 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo Tướng Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm tham gia phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng; sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Tướng Văn T từ 24 tháng đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 19/12/2019 đến ngày 29/12/2019; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ số ma túy thu giữ của bị cáo; hoàn trả Tướng Văn T 01 ví giả da màu nâu và số tiền 1.350.000 đồng.

Người bào chữa cho bị cáo nêu quan điểm như sau: Nhất trí về tội danh và điều luật áp dụng đối với hành vi phạm tội của bị cáo theo Cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố. Bị cáo là người có trình độ học vấn thấp, bố mẹ mất sớm, là người dân tộc thiểu số sống trong vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn thuộc đối tượng trợ giúp pháp lý miễn phí. Tại các cơ quan tiến hành tố tụng, bị cáo thành khẩn khai báo, nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, có thái độ ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo thấp hơn mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố đề nghị.

Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, người bào chữa, bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm và Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội và tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 21 giờ 10 phút, ngày 19/12/2019, tại khu vực điểm đăng ký xe ô tô số 3, Phòng cảnh sát giao thông thuộc địa phận Dốc Lã, Yên Thường, Gia Lâm, Hà Nội, bị cáo Tướng Văn T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy Heroine, tổng khối lượng 1,556 gam để sử dụng thì bị cơ quan Công an kiểm tra bắt giữ cùng vật chứng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo:

[3.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Heroine là chất ma tuý rất độc hại, tàn phá và huỷ hoại sức khoẻ con người, là một trong những nguyên nhân chính phát sinh ra các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác trong đời sống xã hội. Trong những năm qua, tội phạm về ma tuý trên địa bàn thành phố Hà Nội diễn biến rất phức tạp, Nhà nước, các cấp chính quyền và Đoàn thể rất quan tâm và nỗ lực tuyên truyền, giáo dục về tác hại của ma tuý, kêu gọi toàn dân tích cực tham gia phòng chống tệ nạn về ma tuý và tội phạm may tuý. Bị cáo nhận thức được tác hại và hậu quả do ma tuý gây ra nhưng không tích cực phòng chống mà còn tàng trữ để sử dụng nên cần thiết phải xử lý nghiêm minh để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và phòng ngừa chung; góp phần đấu tranh phòng chống tệ nạn và các tội phạm về ma tuý trong đời sống xã hội.

[3.2] Về nhân thân bị cáo: Bị cáo là người nghiện ma túy, chưa có tiền án, tiền sự.

[3.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải. Bị cáo là người có trình độ học vấn thấp, là người dân tộc thiểu số sống trong vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật còn hạn chế nên có thể áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo. Như vậy, bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3.4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tổng hợp nhận định ở trên, với tổng khối lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ trái phép, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để đảm bảo việc răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm tại phiên toà là phù hợp.

[3.5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên toà thể hiện: Bị cáo không có việc làm, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Đối với số ma túy thu giữ của bị cáo là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Hoàn trả Tướng Văn T 01 ví giả da màu nâu và số tiền 1.350.000 đồng do không có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm đã xử lý các vật chứng khác theo thẩm quyền, nay không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[7] Về các nội dung khác:

Đối với đối tượng bán ma túy cho T thì T không biết tên tuổi, địa chỉ, đặc điểm nhận dạng, Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Tướng Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Tướng Văn T 27 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 19/12/2019 đến ngày 29/12/2019.

2.2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

3.1. Tịch thu, tiêu huỷ 05 gói giấy bạc mầu trắng bên trong chứa chất bột mầu trắng là ma túy loại Heroine có khối lượng 0,838 gam (đã thu mẫu 0,045 gam) và 05 gói giấy bạc mầu vàng bên trong chứa chất bột mầu trắng là ma túy loại Heroine có khối lượng 0,622 gam (đã thu mẫu 0,051 gam) thu giữ của bị cáo Tướng Văn T, đựng trong 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Tướng Văn T và Giám định viên, do Phòng PC09-Công an thành phố Hà Nội hoàn lại sau giám định (tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm ngày 17/04/2020).

3.2. Hoàn trả Tướng Văn T 01 ví giả da màu nâu và số tiền 1.350.000 đồng thu giữ của bị cáo (tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm ngày 17/04/2020; số tiền 1.350.000 đồng hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm đang quản lý theo Biên lai thu tiền số AA/2010/0001783 ngày 28/04/2020).

4. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 và Điều 14 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo.

Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Tướng Văn T.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 72/2020/HS-ST ngày 28/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:72/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về