Bản án 72/2020/HS-ST ngày 21/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 72/2020/HS-ST NGÀY 21/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Lê Chân xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 46/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 158/2020/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Thị H, sinh ngày 05 tháng 8 năm 1976 tại Ninh Bình. ĐKHKTT: Số 2B/40 V.K, phường T.L, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: Số 19 tổ 2 đường M, cụm A.T, xã A.Đ, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 3/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn K (đã chết) và bà Đặng Thị T (đã chết); có chồng là Cao Hồng L (đã chết) và có 04 con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ ngày 10/10/2019, tạm giam ngày 16/10/2019; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 45 phút ngày 10/10/2019, Công an quận Lê Chân làm nhiệm vụ tại khu vực nhà máy nước An Dương số 249 Tôn Đức Thắng, quận Lê Chân phát hiện Đỗ Đức H, sinh năm 198A, đi xe mô tô biển kiểm soát: 15C1-044.6X chở Trần Thị H ngồi phía sau có biểu hiện nghi vấn. Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra, thu giữ trong lòng bàn tay trái của H 01 mảnh giấy màu trắng, bên trong có 01 túi nilon màu trắng kích thước 6x10 cm chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy đá. Ngoài ra còn thu giữ của H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung có ốp lưng màu trắng và số tiền 300.000 đồng, thu giữ của H xe mô tô biển kiểm soát: 15C1-044.6X. Sau đó tổ công tác đã đưa H, H cùng tang vật về trụ sở Công an quận Lê Chân lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại bản Kết luận giám định số 539/KLGĐ ngày 12/10/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng trong 01 túi nilon thu giữ của Trần Thị H có khối lượng 4,9398 gam, là loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra Trần Thị H khai nhận: Khoảng 12 giờ ngày 10/10/2019, H đang ở nhà, có một người đàn ông (không rõ lai lịch) gọi điện thoại từ số có ba số cuối là “046” cho H hỏi mua 04 hoặc 05 gam ma túy đá, với giá 500.000đ/1 gam. H đồng ý và hẹn gặp nhau tại khu vực nhà máy nước An Dương để giao dịch. H cầm gói ma túy đi định bán với giá 2.400.000đ. Sau đó, H nhìn thấy H là bạn quen biết ngoài xã hội đi xe mô tô ngang qua nhà nên nhờ H chở đến khu vực ngã tư An Dương. Khi cả hai đến khu vực nhà máy nước An Dương thì bị kiểm tra, bắt quả tang. H không nói cho H biết việc giữ ma túy trên người và mang đi bán. Nguồn gốc số ma túy bị thu giữ do H mua của một người tên là T ở khu PG An Đồng, An Dương cách đây khoảng 01 tháng 05 gam ma túy đá với giá 2.150.000 đồng và đã sử dụng một ít, số còn lại mang đi bán thì bị bắt quả tang.

Đối với Đỗ Đức H, tài liệu điều tra cho thấy H không biết việc H cất giữ ma túy trên người và mang đi bán, không tham gia vào việc mua bán ma túy của H nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân không xử lý.

Đối với nam giới tên T, theo H khai là người bán ma túy cho H, nhưng H không biết lai lịch của T. Xác minh tại địa điểm H mua ma túy là nhà lấn chiếm không xác định được chủ sở hữu, chưa xác định được đối tượng T. Ngoài ra không có tài liệu chứng cứ nào khác chứng minh nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân, tiếp tục điều tra khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với người nam giới hỏi mua ma túy của Trần Thị H vào ngày 10/10/2019, quá trình điều tra Trần Thị H xác định số điện thoại nam giới này gọi là 0328124046. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân tiến hành thu giữ điện tín số điện thoại trên xác định chủ thuê bao là tên là Lâm Thu H, sinh năm 199B, trú tại: thôn 5 xã L.L, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng. Chị H khai không đăng ký và sử dụng số điện thoại này. Do không xác định được căn cước lai lịch của người nam giới trên nên Cơ quan Cảnh sát điều tra công an quận Lê Chân không có cơ sở để điều tra.

Đối với chiếc xe mô tô Biển kiểm soát 15C1-044.6X thu giữ của Đỗ Đức H, Huân khai là mượn của chị Bùi Thị T, để làm phương tiện đi lại, chị T đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc từ năm 2005. Khi H mượn xe, xe mang Biển kiểm soát: 16L7-179Y, nhưng khi sử dụng H bị rơi mất biển nên lấy Biển kiểm soát 15C1-0446X nhặt được lắp vào thay. Giám định số khung, số máy xe là số nguyên thủy không bị tẩy xóa hoặc sửa chữa. Xác minh xe trên mang Biển kiểm soát 16L7-179Y, chủ xe là Bùi Thị T. Xác minh tại địa phương trên được biết chị Bùi Thị T đã đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc từ năm 2005. Xác minh Biển kiểm soát 15C1-0446X, chủ xe là Trần Hồng P, địa chỉ: T.Đ.T, A.Đ, An Dương, Hải Phòng; xác minh tại địa phương không xác định được người có tên Trần Hồng P. Do chưa xác minh được chủ sở hữu chiếc xe trên nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân tiếp tục lưu giữ để điều tra xử lý.

Tại Cáo trạng số 61/CT-VKSLC ngày 24 tháng 3 năm 2020, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân truy tố bị cáo Trần Thị H phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án đã nêu trên.

Đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Thị H mức án từ 6 năm đến 6 năm 6 tháng tù, về tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Bị cáo không có thu nhập ổn định và tài sản riêng nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng vỏ bao gói và lượng ma túy còn lại sau giám định.

Đối với điện thoại di động Samsung có ốp lưng màu trắng thu giữ của bị cáo, dùng liên lạc bán ma túy, là phương tiện phạm tội, cần tịch thu phát mại sung công quỹ nhà nước. Đối với số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) là tài sản riêng của bị cáo, trả lại cho bị cáo, nhưng cần tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án đối với bị cáo.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, nội dung bản cáo trạng, báo cáo bắt giữ, tang vật thu giữ cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Hồi 12 giờ 45 phút ngày 10/10/2019, tại số 249 Tôn Đức Thắng, quận Lê Chân, Trần Thị H có hành vi cất giữ trái phép 4,9398 gam Methamphetamine với mục đích để bán lại kiếm lời, thì bị bắt. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Thị H phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy theo Khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, làm suy thoái đạo đức, lối sống và là nguyên nhân làm phát sinh những tội phạm khác. Do hám lời, bị cáo cố ý cất giữ trái phép ma túy để bán lại cho người khác. Vì vậy, cần xét xử bị cáo một mức án nghiêm, bắt cách ly xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4] Xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Về hình phạt bổ sung:

[5] Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự thì bị cáo có thể bị phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy hành vi của bị cáo có tính vụ lợi, nhưng do bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng:

[6] Số ma tuý Công an thu giữ của bị cáo H sau khi lấy đi giám định, lượng còn lại xét là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung có ốp lưng màu trắng, có số Imei: 358022/05/436823/0 đã cũ thu giữ của bị cáo, xét đây là công cụ, phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu, phát mại sung công quỹ nhà nước. Đối với số tiền 300.000 đồng thu giữ của H là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả lại cho bị cáo, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Về án phí:

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106, Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Xử phạt: Bị cáo Trần Thị H 6 (sáu) năm tù, về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 10 tháng 10 năm 2019.

Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng vỏ bao gói và số ma túy còn lại sau giám định. Tịch thu, phát mại sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung có ốp lưng màu trắng, có số Imei: 358022/05/436823/0 đã cũ thu giữ của bị cáo. Tạm giữ số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn) đồng, để đảm bảo thi hành án. (Theo biên lai thu tiền số 0004546 ngày 25 tháng 3 năm 2020 và Biên bản giao, nhận tài sản, vật chứng ngày 25 tháng 3 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân).

Về án phí: Buộc bị cáo H phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 72/2020/HS-ST ngày 21/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:72/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về