Bản án 72/2020/HSST ngày 19/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 72/2020/HSST NGÀY 19/05/2020 VỀ TI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Hôm nay ngày 19 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự, thụ lý số 57/2020/HSST ngày 10/4/2020 - theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/QĐ-HS ngày 05 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

PHM SƠN C; sinh ngày 13 tháng 4 năm 1995 tại Hà Nội; hộ khẩu thường trú và nơi ở: Số 19 N, phường N, quận T, Hà Nội; hiện không có nơi ở cố định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 8/12; con ông: Phạm Văn S và bà: Nguyễn Thu N. Danh chỉ bản số: 30 lập ngày 02/01/2020 tại Công an quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội. Tiền án, tiền sự: (không) Tạm giữ: 28/12/2019; tạm giam: 03/01/2020 - (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án như sau:

Khoảng 14h00 ngày 27/12/2019, Tổ công tác Công an phường C trong khi làm nhiệm vụ tuần tra tại địa bàn phát hiện Phạm Sơn C đang đỗ xe máy H màu trắng, biển số 29D2 - 397.75 đứng trao đổi với Lê Hoàng H, sinh năm 2001, trú tại: Phòng 102 - B3A tập thể Đ, tổ 10 phường M, quận C, Thành phố Hà Nội tại vỉa hè trước cửa số nhà 57 C, quận H, Thành phố Hà Nội có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, phát hiện và thu giữ trong túi quần bò bên phải phía trước của C có 02 túi nylon chứa thảo mộc khô, C khai nhận là ma túy ‘‘Cần sa’’ mang đi bán cho H. Tại chỗ, H khai nhận đang cầm 700.000 đồng để mua ma túy của C. Tổ công tác đã lập biên bản, đưa C, H cùng tang vật về trụ sở Công an phường C để giải quyết.

Tang vật thu giữ của Phạm Sơn C: 01 túi nylon màu trắng, kích thước khoảng 3x4cm bên trong chứa thảo mộc khô; 01 túi nylon màu trắng, kích thước khoảng 3x5cm bên trong chứa thảo mộc khô; 01 xe máy H màu trắng, biển số 29D2 - 397.75, số máy: 1247157, số khung: 379372; 01 điện thoại di động I màu vàng Gold, sim số: 0888692468, số imei: 355401071428784 và 01 điện thoại di động N màu đen, sim số: 0962729339, số imei: 354185101417096.

Thu giữ của Lê Hoàng H: 01 điện thoại di động N màu xám, sim số: 0344930359, số imei: 353212030201887 và 700.000 đồng.

Theo Kết luận giám định số 69/KLGĐ-PC09 ngày 03/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hà Nội kết luận: thảo mộc khô bên trong 01 túi nylon kích thước 3x4cm là ma túy loại Cần sa, khối lượng: 0,906 gam; thảo mộc khô bên trong 01 túi nylon kích thước 3x5cm là ma túy loại Cần sa, khối lượng: 0,376 gam.

Tại cơ quan điều tra, Phạm Sơn C khai nhận: Khoảng 13h00 ngày 27/12/2019 Lê Hoàng H sử dụng số điện thoại 0344930359 liên lạc với C sử dụng số điện thoại 0962729339 và 0888692468 hỏi mua 02 gói ma túy Cần sa với giá 700.000 đồng, thỏa thuận giao dịch tại 57 C, quận H, Thành phố Hà Nội, C đồng ý. Sau đó, C đi đến một quán internet trên đê T và mua của ‘‘B’’ là bạn xã hội (không biết căn cước) hai gói ma túy Cần sa với giá 500.000 đồng. Mua xong, C cất 02 túi ma túy vào túi quần phía trước bên phải và đi đến số 57 C bán ma túy cho H. Đến nơi, C thấy H đang ngồi trên vỉa hè trước cửa số 57 C nên tiến lại giao dịch mua bán ma túy. Khi C và H đang chuẩn bị giao dịch thì bị tổ công tác kiểm tra, bắt giữ như nêu trên. Nếu bán trót lọt số ma túy trên, C sẽ thu lời được 200.000 đồng. Ngoài ra, C khai trước khi bị bắt, vào ngày 25/12/2019 C đã bán 2.000.000đồng ma túy Cần sa cho L (bạn xã hội không biết căn cước, dùng số điện thoại +849422935) thu lời 500.000đồng. Tuy nhiên, sau đó C thay đổi lời khai khẳng định vào ngày 25/12/2019, L gọi điện cho C hỏi mua ma túy cần sa nhưng do không có sẵn ma túy nên C không bán ma túy cho L. Tiến hành thu giữ điện tín thư tín số điện thoại trên tại Tập đoàn công nghiệp viễn thông quân đội Viettel cung cấp: “Số điện thoại +849422935 không chính xác nên không thể cung cấp thông tin theo yêu cầu”. Xét thấy ngoài lời khai của C không có tài liệu nào khác chứng minh nên không đủ căn cứ để kết luận C có hành vi nhiều lần bán trái phép chất ma túy. Hai điện thoại thu giữ C sử dụng để liên lạc mua bán ma túy; chiếc xe máy C mượn của bạn là Nguyễn Hồng Đ, sinh năm 1963, hộ khẩu thường trú: Số 42 Y, phường P, quận T, Thành phố Hà Nội để đi có việc.

Đối với chiếc xe máy H màu trắng, biển số 29D2 - 397.75, số máy: 1247157, số khung: 379372, quá trình điều tra xác định chiếc xe máy trên đứng tên đăng ký là bà Văn Thị N, sinh năm 1963, hộ khẩu thường trú: Số 42 Y, phường P, quận H, Thành phố Hà Nội. Bà N mua xe từ ngày 12/11/2019 sử dụng làm phương tiện đi lại. Đến ngày 25/12/2019 con trai bà N là anh Nguyễn Hồng Đ mượn bà N xe máy để cho bạn mượn. Xét bà N không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của C nên ngày 24/3/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an quận Hoàn Kiếm đã trao trả chiếc xe máy trên cho bà N. Bà N đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác về dân sự.

Lê Hoàng H khai phù hợp với lời khai của Phạm Sơn C về nội dung sự việc. H mua ma túy mục đích để sử dụng nhưng chưa kịp mua thì bị bắt giữ nên Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an quận Hoàn Kiếm không xử lý đối với H. Đối với 01 điện thoại di động N màu xám và 700.000 đồng thu giữ của H, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho H. H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác về dân sự.

Về đối tượng bán ma túy tên “B”, C khai không biết rõ căn cước nên không có điều kiện xác minh làm rõ để xử lý.

Tại bản cáo trạng số 58/CT-VKS ngày 07/4/2020 Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm truy tố Phạm Sơn C về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà Phạm Sơn C khai khoảng 13h00 ngày 27/12/2019 Lê Hoàng H gọi điện thoai cho C hỏi mua 02 gói ma tuý Cần sa với giá 700.000 đồng thoả thuận giao dịch tại 57 C. Sau đó, C đến quán internet ở khu vực đê T và mua của một người bạn xã hội tên là “B” 02 gói Cần sa (theo kết luận giám định là 1,282gam Cần sa) với giá 500.000 đồng rồi cất vào túi quần trước bên phải đi về 57 C để bán ma tuý cho H. Khi đến nơi C gặp H nhưng C chưa kịp giao ma tuý cho H thì đã bị Công an phát hiện, kiểm tra bắt giữ cùng vật chứng. Vì vậy, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Phạm Sơn C về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015. Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt Phạm Sơn C với mức án từ 28 đến 30 tháng tù. Vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu huỷ toàn bộ ma tuý và 02 sim điện thoại. Điện thoại di động N màu đen và điện thoại di động I màu vàng Gold, liên quan đến hành vi phạm tội nên cho tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo khai báo thành khẩn, lần đầu phạm tội. Bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về tố tụng: Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hoàn Kiếm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung: Khoảng 14h00’ ngày 27/12/2019 Phạm Sơn C mua 1,282gam Cần sa với mục đích để bán. Sau khi mua được ma túy, C cho vào túi quần phía trước bên phải và điều khiển xe máy H màu trắng, biển số 29D2-397.75 đến địa điểm đã hẹn trước với người mua là Lê Hoàng H tại 57 phố C, quận H, Thành phố Hà Nội. Khi C vừa gặp H nhưng chưa kịp giao ma tuý và nhận tiền thì đã bị Công an kiểm tra, phát hiện và bắt giữ cùng vật chứng.

Như vậy, hành vi của bị cáo Phạm Sơn C đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước và trật tự an toàn xã hội. Bị cáo biết rõ hành vi mua bán trái phép ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng do hám lợi nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do đó hành vi của bị cáo cần thiết phải bị truy tố và xét xử.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo khai báo thành khẩn, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Với những phân tích trên, Hội đồng xét xử căn cứ tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian vừa có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

Biện pháp tư pháp:

+ Tịch thu, tiêu huỷ 1,282 gam Cần sa và 02 sim điện thoại.

+ Điện thoại di động N màu đen và điện thoại di động I màu vàng Gold thu giữ của bị cáo, liên quan đến hành vi phạm tội (điện thoại N đã cũ, giá trị sử dụng không còn) nên cho tịch thu, tiêu hủy. Sung quỹ Nhà nước điện thoại di động I màu vàng Gold.

Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: PHẠM SƠN C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

2. Áp dụng: khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015.

3. Hình phạt:

Xử phạt: PHM SƠN C 24 ( hai bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/12/2019.

4. Biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

a. Tịch thu, tiêu huỷ:

+ Một phong bì niêm phong niêm phong bên trong có: Một túi nylon màu trắng kích thước 3x4cm, bên trong chứa thảo mộc khô là Cần sa, có khối lượng 0,906 gam (PC09 - Công an Thành phố Hà Nội đã trích mẫu 0,111gam, còn lại 0,795gam Cần sa).

+ Một túi nylon màu trắng kích thước 3x5cm bên trong chứa thảo mộc khô là Cần sa, có khối lượng 0,376gam (PC09- Công an Hà Nội đã trích mẫu 0,105 gam, còn lại 0,271 gam Cần sa). Trên các mép dán có chữ ký của đương sự Phạm Sơn C, người chứng kiến Nguyễn Phú A, giám định viên Lê Khắc N, cán bộ Phạm Quang A cùng dấu đỏ giáp lai của Công an phường C.

+ Một điện thoại di động nhãn hiệu N màu đen đã cũ; có số imeil: 354185101417096 (Tại thời điểm kiểm tra, máy không mở được nên không kiểm tra được chất lượng hiện trạng của máy).

+ Hai sim điện thoại đã cũ, đã qua sử dụng, chất lượng hiện trạng không rõ.

b. Sung quỹ Nhà nước: Một điện thoại di động nhãn hiệu I màu vàng Gold đã cũ, có số imeil:355401071428784 (Tại thời điểm kiểm tra, máy không mở được nên không kiểm tra được chất lượng hiện trạng của máy).

(Tang vật giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm - theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 08/5/2020).

5. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 72/2020/HSST ngày 19/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:72/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về