Bản án 72/2020/HS-ST ngày 16/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

 TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CHÍ LINH, TỈNH H DƯƠNG

BẢN ÁN 72/2020/HS-ST NGÀY 16/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 9 năm 2020, tại hội trường xét xử tòa án nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 84/2020/TLST - HS ngày 24 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2020/QĐXXST - HS ngày 03 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Bùi T, sinh năm: 1988 tại huyện TH, tỉnh H Dương.

Nơi cư trú: Thôn VT, xã TV huyện TH, tỉnh Hải Dương; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; con ông Bùi Văn T (tên gọi khác Nguyễn Bùi T) và bà Nguyễn Thị T; tiền sự: không; tiền án: Bản án số 53/2013/HSST ngày 12-12-2013 của tòa án nhân dân huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương xử phạt Nguyễn Bùi T 07 năm tù về tội cướp giật tài sản, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 26-12- 2018; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 22-6-2020, bị bắt tạm giam từ ngày 23-6-2020 tại trại tạm giam công an tỉnh Hải Dương.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Những người tham gia tố tụng khác: Anh Nguyễn Xuân H, sinh năm 1975; trú tại: Khu dân cư NT 1, phường S, thành phố C, tỉnh H Dương (người làm chứng - vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Sáng ngày 22-6-2020 Nguyễn Bùi T (là người nghiện ma Túy) điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wavers, BKS34B2-198.31 đi từ nhà đến khu vực ngã ba Thủy thuộc khu dân cư số 5, phường Phả Lại, thành phố Chí Linh để chơi. Khi đến nơi T gặp H (là bạn xã hội không rõ tên, tuổi, địa chỉ). Khi gặp H, T rủ H lên Sao Đỏ để lấy ma túy về cùng nhau sử dụng, T đồng ý. Khoảng 10 giờ cùng ngày T điều khiển xe môtô từ phường Phả Lại đến khu vực phường Sao Đỏ thì H gọi điện thoại vào chiếc điện thoại Nokia 1120 hướng dẫn T đường đi để lấy ma túy. Theo hướng dẫn của H, T đi vào ngõ 01, khu dân cư Nguyễn Trãi 1, phường Sao Đỏ, thành phố Chí Linh vị trí phía sau siêu thị Vincom, T nhìn thấy 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng chứa ma túy để trong thùng xốp trồng cây ở rìa đường. T cầm vỏ bao thuốc lá cầm trong lòng bàn tay phải rồi đi về, khi đang quay xe thì T nhìn thấy lực lượng công an, do sợ hãi T vất vỏ bao thuốc lá chứa ma túy xuống đất vị trí ngay dưới chân T đang đứng. Lực lượng công an thành phố Chí Linh bắt quả tang thu giữ tại vị trí dưới chân T đang đứng 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long bên trong chứa 01 Ti nilon màu trắng, viền khóa màu xanh, hình chữ nhật, kích thước (02 x2.5)cm, bên trong Ti nilon chứa chất tinh thể màu trắng là ma Túy; 01 xe mô tô nhãn hiệu Hoda, loại Wavers, BKS 34B2-198.31 số máy JC52E1020451, số khung 528XDY004768; 01 giấy chứng nhân đăng ký xe mô tô, xe máy BKS 34B2- 198.31 số 128832 mang tên Nguyễn Bùi T.

Tại bản Kết luận giám định số 292/KLGĐ-PC09 ngày 24-6-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng niêm phong trong phong bì, gửi đến giám định khối lượng là:

0,270g là ma túy, loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 71/CT-VKS - CL ngày 20-8-2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương đã truy tố bị cáo Nguyễn Bùi T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà:

Bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi như nêu trên, xác định có việc tàng trữ ma túy để sử dụng và thừa nhận việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương là đúng pháp luật và xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Bùi T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 16 tháng đến 19 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 22-6-2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu cho tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định kèm theo vỏ bao gói mẫu.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 10 giờ 30 phút ngày 22-6-2020 khu vực rìa đường ngõ 1, khu dân cư Nguyễn Trãi 1, phường Sao Đỏ, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, Nguyễn Bùi T có hành cất giấu trái phép 0,270g ma túy, loại Methamphetamine mục đích sử dụng cho bản thân thì bị lực lượng Công an thành phố Chí Linh bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự và ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật và bị nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Chất Methamphetamine thuộc danh mục các chất ma túy bị Nhà nước cấm lưu hành nên hành vi của bị cáo đã cấu thành thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Về tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án về tội “ Cướp giật tài sản” chưa được xóa án tích nay lại phạm tội mới nên bị cáo pH chịu tình tiết “ tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận tội nên bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy đinh tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng hình phạt tù nghiêm, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo mục đích trừng trị, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về hình phạt bổ sung: Xét điều kiện kinh tế và tính chất hành vi bị cáo đã thực hiện không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy hoàn lại sau giám định là 0,208g Methamphetamine kèm vỏ bao gói mẫu đây là vật thuộc loai nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên cần tịch thu cho tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[5] Các vấn đề khác:

Đối với chiếc xe môtô chiếc xe mô tô BKS 34B2-198.31BKS 34C1- 230.28 bị cáo không dùng vào việc phạm tội cơ quan điều trả đã trả lại cho bị cáo là đúng quy định pháp luật.

Đối với người thanh niên tên H là người rủ bị cáo T đi lấy ma túy về cùng sử dụng, bị cáo không biết tên tuổi địa chỉ, số điện thoại của người này quá trình điều tra không xác định được lý lịch, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với chiếc điện thoại Nokia 1120 và sim khuyến mại (bị cáo không nhớ số) sử dụng để liên lạc với H sau khi liên lạc T đánh rơi ở đâu không rõ, quá trình điều tra Cơ quan CSĐT Công an thành phố Chí Linh đã ra thông báo truy tìm nhưng không thấy nên không có căn cứ để xử lý.

[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Bùi T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Nguyễn Bùi T 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 22-6- 2020.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 0,208g Methamphetamine hoàn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu được đựng trong 01 phong bì niêm phong dán kín số 292/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự - công an tỉnh Hải Dương ( tình trạng vật chứng được mô tả chi tiết trong biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 21-8-2020 giữa Công an thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương).

Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Bùi T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 72/2020/HS-ST ngày 16/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:72/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Chí Linh - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về