Bản án 72/2019/HS-ST ngày 29/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔ LƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 72/2019/HS-ST NGÀY 29/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 8 năm 2019 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 78/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 77/2019/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Tr, Sinh ngày 06 tháng 5 năm 1982 tại xã Quang Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Xóm 6, xã Quang Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Sỹ (Chết); con bà: Nguyễn Thị Long, sinh năm 1952; vợ: Lê Thị Quý, sinh năm 1983; con: có 02 con, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/6/2019 đến nay, hiện đang tạm giam, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Vào lúc 11 giờ 00 phút ngày 20/6/2019, tại xóm 11 xã Quang Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, trong lúc tuần tra Công an huyện Đô Lương đã bắt quả tang Nguyễn Văn Tr, sinh năm 1982, trú tại xóm 6, xã Quang Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ của Tr 01 (một) gói nhỏ được gói bằng giấy kẻ sọc màu trắng, kích thước khoảng 1x2cm, bên trong có chứa ma túy (Heroine); 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda loại xe Dream màu nâu trắng mang BKS: 37K3-2535 đã qua sử dụng và 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung màu nâu. Sau khi lập biên bản thu giữ tang vật, Công an huyện Đô Lương đã đưa Tr về trụ sở để làm việc, qua đấu tranh Tr khai nhận:

Khoảng 10 giờ 45 phút ngày 20/6/2019 Nguyễn Văn Tr đang làm việc ở cây xăng Khanh Quỳnh thuộc xóm 11 xã Quang Sơn huyện Đô Lương tỉnh Nghệ An thì có người đàn ông tên là Anh, nhà ở đâu Tr không biết, dùng số điện thoại 0353736936 gọi vào số điện thoại của Tr là 0978270656 hỏi: “có sử dụng không”, ý là hỏi Tr có sử dụng ma túy không. Tr trả lời: “có”. Anh hỏi tiếp: “lấy mấy tiền”. Tr trả lời: “trăm, trăm rưỡi chi đó”, ý của Tr là hỏi mua ma túy heroine của Anh khoảng một trăm ngàn đồng đến một trăm năm mươi ngàn đồng để về sử dụng. Anh nói: “ừ, để em đưa xuống”. Khoảng năm đến mười phút sau, Tr gọi lại cho Anh hỏi: “ở mô”. Anh trả lời: “ở chợ Quang Sơn”. Tr đi xe mô tô nhãn hiệu Honda loại xe Dream màu nâu trắng mang BKS: 37K3-2535 lấy ở trong kho của cây xăng Khanh Quỳnh (xe này là do khách gửi cho Tr ở cây xăng Khanh Quỳnh vào ngày 18/6/2019 và khách có để lại chìa khóa ở xe nhờ Tr giữ). Tr đi xe lên khu vực trong chợ Quang Sơn. Đến nơi, Tr thấy Anh ở đó. Anh đưa cho Tr một gói nhỏ bên trong có chứa ma túy (Heroine). Tr cầm gói ma túy heroine Anh đưa trong lòng bàn tay trái của Tr và đưa lại cho Anh số tiền 150.000đ (một trăm năm mươi ngàn đồng). Anh cầm tiền Tr đưa và đi đâu Tr không biết. Tr lên xe và đi về nhà của Tr ở xóm 6 xã Quang Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Trên đường về thì Tr bị lực lượng Công an bắt quả tang.

Ngày 20/6/2019 Cơ quan CSĐT Công an huyện Đô Lương đã tiến hành mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại. Sau khi loại bỏ bao bì số chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn Tr có khối lượng là: 0,107g (Không phẩy một trăm linh bảy gam). Hội đồng giám định đã lấy toàn bộ số chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn Tr gửi đi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 932/KL-PC09 ngày 24/6/2019 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Nghệ An kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn Tr gửi đi giám định là chất ma túy (hêroin) có khối lượng: 0,107g (Không phẩy một trăm linh bảy gam).

Về vật chứng vụ án:

+ 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda loại xe Dream màu nâu trắng mang BKS: 37K3 - 2535 sau khi tiến hành xác minh, làm rõ (chiếc xe máy do ông Phạm Bá Toản là chủ sở hữu hợp pháp gửi cho nhân viên bán xăng tại cây Xăng Khanh Quỳnh, ông Toản không biết việc Nguyễn Văn Tr Sử dụng xe để đi mua ma túy) nên đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Phạm Bá Toản, sinh năm 1960, trú tại xóm 7 xã Trù Sơn, huyện Đô Lương tỉnh Nghệ An.

+ 01 (Một) phong bì thư màu nâu của Công an huyện Đô Lương được niêm phong dán kín theo đúng quy định, kích thước 17x23 cm, bên trong đựng vật chứng còn lại gồm: vỏ giấy, vỏ phong bì niêm phong ban đầu thu giữ của Nguyễn Văn Tr.

+ 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung màu nâu thu giữ của Nguyễn Văn Tr được niêm phong bằng: 01(một) phong bì thư màu nâu của công an huyện Đô Lương, kích thước 17x23 cm theo đúng quy định.

Bản cáo trạng số 81/CT-VKS-HS ngày 08/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An truy tố Nguyễn Văn Tr về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Tr phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, 2 điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Tr từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

Miễn hình phạt phụ là phạt tiền cho bị cáo. Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nhất trí về tội danh, khung hình phạt, không tranh luận gì thêm và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Đô Lương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn Tr khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa kết luận: Có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Văn Tr phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Hội đồng xét xử nhận thấy: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, được chứng minh bằng Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An, đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 11 giờ 00 phút ngày 20/6/2019, tại khu vực Xóm 11, xã Quang Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Bị cáo Nguyễn Văn Tr đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,107 gam ma túy (Heroine) mục đích sử dụng thì bị bắt giữ. Hành vi của Nguyễn Văn Tr đã đủ yếu tố cấu thành tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: Đây là vụ án thuộc loại nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trật tự trị an xã hội, gây hoang mang dao động trong quần chứng nhân dân, làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của nhân dân, gây tâm lý bất an trong xã hội, bị cáo Tr được sinh ra trong gia đình lao động nhưng không tu chí làm ăn mà đua đòi nghiện ngập nên bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Chính vì vậy đưa bị cáo ra xét xử công khai tại phiên toà hôm nay và lên cho bị cáo mức án nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm.

Bị cáo Nguyễn Văn Tr không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng là đối tượng nghiện ma tuý. Cần phải lên cho bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên cũng cần xem xét bị cáo sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo có bố là người có công với cách mạng được nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công giải phóng hạng ba. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, 2 điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng để giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[4] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù bị cáo còn có thể bị phạt tiền hoặc tịch thu tài sản, nhưng qua xác minh của cơ quan điều tra thì bị cáo đang sống chung với vợ con, tài sản riêng không có gì đáng giá vì vậy không áp dụng hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản đối với bị cáo.

[5] Trong vụ án này, có đối tượng tên là Anh ở thị trấn Đô Lương, Tr khai là người bán ma tuý cho bị cáo. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đô Lương đã xác minh trên địa bàn thị trấn Đô Lương không có đối tượng nào có đặc điểm như Tr khai. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau.

[6] Về vật chứng và xử lý vật chứng: 01 phong bì thư màu nâu của Công an huyện Đô Lương đã niêm phong bên trong có chứa vỏ giấy, vỏ phong bì niêm phong ban đầu là vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy;

+ 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung màu nâu thu giữ của Nguyễn Văn Tr được niêm phong bằng: 01 (một) phong bì thư màu nâu của công an huyện Đô Lương, kích thước 17x23 cm theo đúng quy định. Đây là công cụ Tr sử dụng vào việc liên lạc mua ma tuý nên cần hoá giá sung quỹ nhà nước.

[7] Về án phí: Căn cứ điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội; buộc bị cáo Tr phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương tại phiên tòa về việc giải quyết toàn bộ vụ án là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Nguyễn Văn Tr phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Văn Tr 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo (20/6/2019).

2. Về vật chứng và xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư đã niêm phong bên trong là vỏ giấy và vỏ phong bì niêm phong ban đầu.

Tịch thu hoá giá sung quỹ nhà nước một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung màu nâu thu giữ của Nguyễn Văn Tr được niêm phong bằng phong bì thư màu nâu của công an huyện Đô Lương.

(Vật chứng trên có tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đô Lương theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/8/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đô Lương và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đô Lương).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội: Buộc bị cáo Nguyễn Văn Tr phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo Nguyễn Văn Tr có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 72/2019/HS-ST ngày 29/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:72/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đô Lương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về