TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 72/2019/HS-ST NGÀY 13/09/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 13 tháng 9 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 68/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 205/2019/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Hữu P, sinh ngày 08/7/1995; Đăng ký hộ khẩu thường trú: Khóm A, Phường B, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp; Chỗ ở hiện nay: Tổ A, ấp B, xã MT, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Làm thuê; Cha tên: Nguyễn Văn Ng, mẹ tên: Trần Thị S, sinh năm: 1973; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ 3 trong gia đình; Chưa có vợ, con; Tiền sự: Ngày 17/9/2018 bị Công an xã Mỹ Trà xử phạt vi phạm Hnh chính 750.000 đồng về hành vi gây rối trật tự công cộng, ngày 19/9/2018 đã nộp phạt xong; Tiền án: Không, + Ngày 30/11/2018, Nguyễn Hữu P bị Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh xử phạt 02 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích. Trong thời gian chờ xét xử phúc thẩm thì ngày 28/01/2019 đã thực hiện hành vi Cố ý gây thương tích cho Nguyễn Hoàng D. P đi chấp Hnh án ngày 04/4/2019 theo Quyết định thi Hnh án số 15 ngày 25/3/2019.
Tạm giữ: Không có;
Bắt tạm giam ngày 10/4/2019. Hiện bị can đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người bị hại: Nguyễn Hoàng D, sinh năm 2001.
Địa chỉ: tổ A, ấp B, xã MT, thành phố Cao Lãnh, Đồng Tháp.
- Người làm chứng:
1. Phạm Phúc Kh, sinh năm 2000 (vắng mặt).
Địa chỉ: tổ D, khóm C, phường D, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
2. Nguyễn Thanh Tr, sinh năm 1996 (vắng mặt).
Địa chỉ: tổ A, ấp B, xã MT, thành phố Cao Lãnh, Đồng Tháp.
3. Lê Thị Bích Th, sinh năm 1989 (vắng mặt).
Địa chỉ: số B, đường C, phường D, thành phố Cao Lãnh.
4. Đặng Thái H, sinh năm 1994 (vắng mặt).
Địa chỉ: tổ A, ấp B, xã MT, thành phố Cao Lãnh, Đồng Tháp.
5. Đặng Thái Bi, sinh năm 1999 (vắng mặt).
Địa chỉ: tổ 3, ấp 3, xã MT, thành phố Cao Lãnh, Đồng Tháp
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ ngày 28/01/2019, P uống bia cùng Nguyễn Hoàng D; Đặng Thái Bi; Đặng Thái H; Nguyễn Thanh Tr và Phạm Phúc Kh cùng ngụ xã MT, thành phố Cao Lãnh. Cả nhóm ngồi nhậu tại quán “Cháo Vịt” của chị Lê Thị Bích Th, sinh năm 1989, ngụ ở tổ 7, ấp 3, xã Mỹ Trà, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
Trong lúc ngồi nhậu nghe D có nói lớn tiếng cho là D không tôn trọng những người đang nhậu chung nên P tức giận. Lúc 21 giờ 30 phút thấy D vừa nghe điện thoại trở vào ngồi xuống ghế thì tay phải P cầm ly bia (không có nước bia trong ly) loại ly thủy tinh có quai cầm đứng lên đánh từ trên xuống, hướng từ phải qua trái trúng vào mặt bên phải của D 01 cái làm vỡ ly. Thấy P đánh D, trong lúc này Bi ngồi bên trái của D đứng dậy, tay phải cầm ly uống bia đánh vào đầu bên trái của D 01 cái làm vỡ ly. Sau khi gây thương tích cho D, P và Bi đi bộ về nhà. D được mọi người đưa đến Bệnh viện Đa khoa Đồng Tháp để điều trị. Công an xã Mỹ Trà đến hiện trường và thu giữ nhiều mảnh vỡ của 02 ly thủy tinh.
Ngày 31/01/2019, Nguyễn Hoàng D đã làm đơn yêu xử lý hình sự đối với Nguyễn Hữu P và Đặng Thái Bi, đồng thời yêu cầu P, Bi bồi thường 9.200.000 đồng tiền thiệt hại về sức khỏe.
Theo kết luận giám định pháp y số số 54/TgT ngày 21/02/2019 của Trung tâm pháp y về thương tích, kết luận: Đa sẹo vết thương phần mềm số lượng sẹo nhiều, kích thước nhỏ; Sẹo vết phần mềm thái dương - má phải lành xấu ảnh hưởng đến thẩm mỹ, tỷ lệ thương tật 15% (mười lăm phần trăm), theo nguyên tắc cộng lùi (khi có từ hai tỷ lệ tổn thương trở lên). Cơ cấu hình thành vết thương từ phải qua trái và từ trước ra sau. Tổn thương trên do vật tày có cạnh gây ra.
Ngày 28/6/2019 Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Cao Lãnh có công văn số 566 về việc xác định tỷ lệ thương tích trên vết thương cụ thể.
Ngày 01/7/2019 Trung tâm Pháp y tỉnh Đồng Tháp có công văn số 139 xác định tỷ lệ thương tích trên cơ thể của Nguyễn Hoàng D cụ thể như sau:
Sẹo vết thương phần mềm thái dương - má phải lành xấu ảnh hưởng đến thẩm mỹ. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là 11%.
Đa sẹo vết thương phần mềm số lượng sẹo nhiều, kích thước nhỏ, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 04%.
Sẹo vết thương phần mềm thái dương đỉnh trái sẹo lành tỷ lệ tổn thương cơ thể là 01% (Một phần trăm);
Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể là 15% (Mười lăm phần trăm), theo nguyên tắc cộng lùi tại Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014.(Bút lục:32-33) Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu nhiều mảnh vỡ của 02 ly thủy tinh nên không xác định được trọng lượng của mỗi ly. Trên cơ sở nhận dạng ly thủy tinh tương tự, thể hiện ly thủy tinh mà P và Bi sử dụng đánh D có quai cầm, đường kính miệng ly 08 cm, chiều cao 12 cm, cân nặng 400 gam.
Về phần dân sự: Ngày 25/6/2019 gia đình P đã thỏa thuận và bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho D là 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng). Ngày 25/6/2019 D rút yêu cầu xử lý hình sự cho Nguyễn Hữu P, Đặng Thái Bi và không yêu cầu bồi thường gì khác.
Trong quá trình điều tra xác định khi P và Bi gây thương tích cho D không bàn bạc để cùng thực hiện, không xác định được dấu hiệu đồng phạm khi thực hiện tội phạm. Cơ quan điều tra chứng minh vết thương mà Bi đã gây ra cho D là 01%, còn lại 14% thương tích là do P gây ra. Do D không yêu cầu khởi tố vụ án và xử lý đối với Bi nên Cơ quan điều tra không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Đặng Thái Bi. hành vi của Bi Cơ quan điều tra đã chuyển về nơi cư trú để xử lý Hnh chính.
Đối với hành vi của Nguyễn Hữu P và Đặng Thái Bi đã sử dụng 02 ly thủy tinh của chị Th gây thương tích cho D đã bị vỡ. Hiện nay, chị Th không yêu cầu P và Bi bồi thường giá trị 02 ly thủy tinh và không nhận lại số mảnh vỡ ly thủy tinh.
Trong quá trình điều tra Nguyễn Hữu P khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung đã nêu trên và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác thu thập trong hồ sơ vụ án.
Tại cáo trạng số 67/CT-VKSND-TPCL ngày 18 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Lãnh truy tố bị cáo Nguyễn Hữu P về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân nhân thành phố Cao Lãnh giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo như cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu P phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
+ Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu P với mức án từ 03 năm đến 04 năm tù.
+ Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng đề nghị Hội đồng xét xử tuyên như phần quyết định của cáo trạng đã nêu.
Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến Hnh tố tụng, người tiến Hnh tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định của cơ quan tiến Hnh tố tụng, người tiến Hnh tố tụng đã thực hiện phù hợp pháp luật.
[2] Những chứng cứ xác định có tội, cấu tHnh tội phạm và điều luật áp dụng:
Đây là vụ án cố ý gây thương tích do bị cáo Nguyễn Hữu P thực hiện. Chỉ vì nghỉ là D không tôn trọng anh em trong bàn nhậu nên nói lớn tiếng, P đã sử dụng ly thủy tinh có quai cầm (loại ly thủy tinh có quai cầm, bên trong không còn nước,trọng lượng 400gam, đường kính miệng ly 08 cm và chiều cao 12 cm) là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho Nguyễn Hoàng D theo kết luận vết thương do bị cáo gây ra cho D có tỷ lệ thương tật là 14% (Mười bốn phần trăm) vào khoảng 21 giờ 30 phút, tại tổ 7, ấp 3, xã Mỹ Trà, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Chỉ vì mâu thuẩn nhỏ nhặt nhưng P đã gây thương tích cho D, thể hiện việc phạm tội có tính chất côn đồ.
Lời khai nhận của các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với tài liệu, chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án.
Trong phần tranh luận tại phiên tòa, lời luận tội của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa cho rằng bị cáo đã phạm tội “Cố ý gây thương tích theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự như Cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố là hoàn toàn có căn cứ nên chấp nhận. Bị cáo thừa nhận lời luận tội của Kiểm sát viên là đúng người, đúng tội, đúng với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra.
Bị cáo là người đã thành niên, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi cố ý gây thương tích cho người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện, chứng tỏ việc phạm tội của bị cáo là cố ý và tội phạm đã hoàn tHnh.
Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.
Điều 134 Bộ luật Hình sự quy định:
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ4thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: ...
a) ... Dùng hung khí nguy hiểm...;
i) Có tính chất côn đồ;...
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm: ...
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này".
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Do đó cần áp dụng mức hình phạt tương xứng đối với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm tạo điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt và răn đe giáo dục, phòng ngừa chung cho xã hội.
Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã tHnh khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có công với cách mạng, được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết tăng nặng: Không có.
[3] Các vấn đề khác:
Đối với hành vi của Đặng Thái Bi gây thương tích cho D cho D nhưng không bàn bạc với P để cùng thực hiện, không xác định được dấu hiệu đồng phạm khi thực hiện tội phạm. Tại phiên tòa bị hại khẳng định bị Bi đánh trúng trên đỉnh đầu và Cơ quan điều tra chứng minh vết thương mà Bi đã gây ra cho D là 01%, còn lại 14% thương tích là do P gây ra. Do D không yêu cầu khởi tố vụ án và xử lý đối với Bi nên Cơ quan điều tra không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Đặng Thái Bi. hành vi của Bi Cơ quan điều tra đã chuyển về nơi cư trú để xử lý Hnh chính. Xét thấy là phù hợp nên không đặt vấn đề xử lý.
[4] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:
- Về trách nhiệm dân sự: Đã thỏa thuận bồi thường xong và bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đặt vấn đề giải quyết.
- Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý như sau: Tịch thuy tiêu hủy số mảnh vỡ của 02 ly thủy tinh
[5] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hữu P phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu P phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu P 03 (ba) năm tù.
Áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự: Tổng hợp phạt 02 (hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích của bản án số 67/2019/HSPT ngày 04-03-2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp với bản án này. Hình phạt chung của 02 bản bản án là 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù của bị cáo được tính từ ngày 10-4-2019.
- Về trách nhiệm dân sự: Đã thỏa thuận bồi thường xong và bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đặt vấn đề giải quyết.
- Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý như sau:
Tịch thuy tiêu hủy số mảnh vỡ của 02 ly thủy tinh
- Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 về án phí của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Bị cáo Nguyễn Hữu P phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp.
Bản án 72/2019/HS-ST ngày 13/09/2019 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 72/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cao Lãnh - Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về