Bản án 72/2018/HS-PT ngày 28/03/2018 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 72/2018/HS-PT NGÀY 28/03/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 28 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 08/2018/TLPT-HS ngày 11 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo Lê Văn T do có kháng cáo của bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 36/2017/HS-ST ngày 28 tháng 11 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.

- Bị cáo bị kháng cáo:

Lê Văn T, sinh năm 1983, tại huyện T, TP. C;

Nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện T, thành phố C; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn H và bà Phan Thị G; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 29-5-2017 cho đến nay.

Bị cáo có mặt

- Bị hại có kháng cáo: Ông Phạm Văn Q, sinh năm 1960 (có mặt)

Nơi cư trú: Ấp M, xã M, huyện U, tỉnh K.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 13 giờ ngày 28-5-2017, Lê Văn T đi đến nhà của ông Phạm Văn Q ở ấp M, xã M, huyện U, tỉnh K để hỏi rõ chuyện T bị trộm mất lú và nghi ngờ con ông Q là Phạm Minh T lấy trộm. Ông Q nói không có ai lấy trộm nên dẫn đến cự cãi, sau đó T bỏ đi về nhà.

Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, T mới rủ anh Mạch Văn S và Mạch Văn V đi lại nhà ông Q để tiếp tục hỏi vụ mất trộm lú. Sau đó, S và V đi đến nhà ông Q trước, T điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát số 68S9 -9539 đi theo sau. Khi đến nơi, T mới đi ra phía sau nhà ông Q, lúc này thì có ông Q, vợ ông Q là bà Mạch Thị C cùng với Mạch Văn V, Mạch Văn S, Phạm Việt K, Phan Chí L, Võ Tấn T đang nói chuyện với nhau. T mới hỏi ông Q việc con ông Q có lấy trộm lú không, nếu có thì trả lại, ông Q nói không có ai lấy. Sau đó, hai bên lời qua tiếng lại, T mới lấy khúc cây gỗ định đánh ông Q thì được L can ngăn lại. Lúc này, ông Q mới đi ra phía nhà trước và gọi điện thông báo cho Công an ấp biết, còn T đi ra lộ và mở cốp xe lấy một con dao dài 21,5cm cầm trên tay (con dao có sẵn trong xe của T từ trước). T mới đi đến chỗ ông Q đang đứng và dùng dao đâm 01 nhát trúng vào vùng bụng của ông Q gây thương tích. Lúc này, ông Q mới đẩy T ra và chạy ra ngoài sân lấy 01 đoạn ván gỗ dài 1,1m đánh trúng phớt vào đầu T, sau đó ông Q mới cầm miếng ván gỗ ném vào T nhưng không trúng. Lúc này, Phạm Việt K đang ở phía sau nhà và nghe thấy cha mình là ông Q bị đánh nên mới lấy 01 con dao dài 49,5cm chạy đến chỗ ông Q, K mới dùng một tay đỡ ông Q, tay còn lại cầm dao quơ qua quơ lại ngăn không cho T tấn công. Lúc này, T mới cầm dao xông vào định đâm ông Q thì bị K quơ dao trúng vào phần ngực gây thương tích, T bỏ chạy ra lộ. Sau đó, T và ông Q được mọi người đưa đến Bệnh viện để điều trị thương tích.

*Vật chứng vụ án: 01 cây dao có chiều dài 21,5cm, cán dao bằng nhựa màu vàng dài 10cm, phần lưỡi dao bằng kim loại dài 11,5cm, mũi dao nhọn, dao cũ đã qua sử dụng; 01 cây dao tự chế có chiều dài 49,5cm, cán dao bằng gỗ dài 19,2cm, đường kính lớn nhất của dao là 03cm, lưỡi dao bằng kim loại màu đen dài 30,3cm, nơi rộng nhất của lưỡi dao là 7,7cm, mũi dao nhọn, dao cũ đã qua sử dụng; 01 đoạn gỗ hình chữ nhật có chiều 110cm, ngang 11,5cm, cao 04cm, bị tưa hai đầu; 01 chiếc xe mô tô nhãn nhãn hiệu Fimex – Korea, màu đỏ, mang biển kiểm soát 68S9 -9539, không có ốp sên dưới, không bửng chắn gió, nhiều chỗ bị trầy xước, xe cũ đã qua sử dụng.

*Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 410/KL-PY ngày 18 tháng 7 năm 2017 của Trung tâm Pháp y Sở y tế tỉnh Kiên Giang kết luận đối với ông Phạm Văn Q như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Sẹo xơ cứng vùng bụng trái và sẹo mổ;

- Thủng dạ dày 02 lỗ;

- Thủng hổng tràng 02 lỗ;

- Đứt nhánh động mạch mạc treo góc Treitz;

- Viêm tụy (nghĩ do bệnh lý).

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại: 58%.

3. Vật gây thương tích: Vật sắc nhọn.

4. Về chức năng bộ phận cơ thể: Hiện tại thương tích không gây hạn chế chức năng bộ phận cơ thể.

*Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 404/KL – PY ngày 14 tháng 7 năm 2017 của Trung tâm Pháp y Sở Y tế tỉnh Kiên Giang kết luận đối với Lê Văn T như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định: Sẹo lồi, xơ cứng vùng ngực.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên: 11%.

3. Vật gây thương tích: Vật sắc.

4. Về thẩm mỹ và chức năng bộ phận cơ thể: Thương tích không gây ảnh hưởng thẩm mỹ và không gây hạn chế chức năng bộ phận cơ thể.

*Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 36/2017/HS-ST ngày 28 tháng 11 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng: Khoản 3 Điều 104; điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46 và Điều 47 và Điều 33 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn T 02 năm tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 29-5-2017.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và báo quyền kháng cáo theo hạn luật định.

Ngày 06 tháng 12 năm 2017, bị hại ông Phạm Văn Q kháng cáo bản án sơ thẩm với  nội  dung tăng  nặng hình  phạt  đối  với  bị cáo, bồi thường số  tiền 47.638.443 đồng.

Do bị hại rút kháng cáo phần hình phạt đối với bị cáo nên đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang thực hiện quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ Điều 355 Bộ luật Tố tụng Hình sự đình chỉ xét xử phúc thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo. Đối với kháng cáo yêu cầu bồi thường, tại phiên tòa bị cáo tự nguyện bồi thường số tiền 47.683.443 đồng theo yêu cầu người bị hại, nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận thêm phần trách nhiệm dân sự, sửa bản án sơ thẩm:

Người bị hại ông Phạm Văn Q rút phần kháng cáo về phần hình phạt đối với bị cáo, yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 47.683.443 đồng.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như án sơ thẩm đã nêu và tự nguyện bồi thường số tiền 47.683.443 đồng theo yêu cầu người bị hại, xin Hội đồng xét xử xem xét mức án nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vào khoảng 16 giờ cùng ngày 28 tháng 5 năm 2017, Lê Văn T điều khiển xe mô tô đến nhà ông Phạm Văn Q để hỏi chuyện T nghi ngờ con ông Q là Phạm Minh T lấy trộm lú. Khi đến gặp ông Q hỏi chuyện thì giữa T và ông Q xảy ra cự cãi. T đi ra lộ và mở cốp xe lấy một con dao dài 21,5cm cầm trên tay. T đi đến chỗ ông Q đang đứng và dùng dao đâm 01 nhát trúng vào vùng bụng của ông Q gây thương tích. Lúc này, ông Q mới đẩy T ra và chạy ra ngoài sân lấy 01 đoạn ván gỗ dài 1,1m đánh trúng phớt vào đầu T, sau đó ông Q mới cầm miếng ván gỗ ném vào T nhưng không trúng. Lúc này, Phạm Việt K đang ở phía sau nhà và nghe thấy cha mình là ông Q bị đánh nên mới lấy 01 con dao dài 49,5cm chạy đến chỗ ông Q, K mới dùng một tay đỡ ông Q, tay còn lại cầm dao quơ qua quơ lại ngăn không cho T tấn công. Lúc này, T mới cầm dao xông vào định đâm ông Q thì bị K quơ dao trúng vào phần ngực gây thương tích, T bỏ chạy ra lộ. Sau đó, T và ông Q được mọi người đưa đến Bệnh viện để điều trị thương tích. Hậu quả, T gây tổn thương cơ thể cho ông Q tỷ lệ 58%.

[2] Về tính chất của hành vi vi phạm:

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, không những trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người bị hại mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo và bị hại không có mâu thuẫn gì lớn, chỉ vì bị cáo nghi ngờ con của bị hại trộm lú mà bị cáo dùng dao là hung khí nguy hiểm đâm người bị hại gây thương tích 58 %. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) là đúng người, đúng tội, phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Xét đơn kháng cáo của bị hại, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã khắc phục hậu quả cho người bị hại số tiền 8.000.000 đồng, nên cấp sơ thẩm xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46 và áp dụng thêm Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) để xem xét cho bị cáo mức án dưới khung hình phạt là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, người bị hại ông Phạm Văn Q rút phần kháng cáo về hình phạt đối với bị cáo. Xét thấy, việc rút kháng cáo phần hình phạt của bị hại là hoàn toàn tự nguyện, nên Hội đồng xét xử chấp nhận, đình chỉ xét xử phúc thẩm kháng cáo về phần hình phạt của bị hại đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 47.638.443 đồng. Bị cáo đồng ý bồi thường toàn bộ cho bị hại, nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo bồi thường số tiền 47.683.443 đồng, nhưng được khấu trừ số tiền 8.000.000 đồng mà bị cáo đã bồi thường, bị cáo còn phải bồi thường số tiền còn lại 39.683.443 đồng cho bị hại.

Nên trong thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bị hại, chấp nhận quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, sửa bản án sơ thẩm.

[4] Về án phí: Bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm đ khoản  1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Chấp nhận một phần đơn kháng cáo của bị hại ông Phạm Văn Q về phần trách nhiệm dân sự.

Đình chỉ xét xử phúc thẩm về phần hình phạt của bị hại ông Phạm Văn Q đối với bị cáo Lê Văn T.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 585, 590 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Lê Văn T bồi thường số tiền 47.683.443 đồng cho bị hại ông Phạm Văn Q, khấu trừ số tiền 8.000.000 đồng (theo biên nhận đề ngày 10-7-2017), bị cáo còn phải bồi thường số tiền 39.683.443 đồng cho ông Phạm Văn Q.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Người bị hại ông Phạm Văn Q không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

299
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 72/2018/HS-PT ngày 28/03/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:72/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về