Bản án 72/2018/HS-PT ngày 26/10/2018 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 72/2018/HS-PT NGÀY 26/10/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 26 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 75/2018/TLPT-HS ngày 25 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo Lê Văn H.

Do có kháng cáo của bị cáo Lê Văn H đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2018/HS-ST ngày 14 tháng 8 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Bình Phước.

Bị cáo có kháng cáo:

Lê Văn H, sinh năm 1980 tại Thanh Hóa; HKTT: Thôn B, xã P, huyện P, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiêp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Lê Văn H1 (Đã chết) và bà Trịnh Thị D, sinh năm 1945; Có vợ là Nguyễn Thị T và 03 người con, lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo được tại ngoại cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra, còn có bị hại không có kháng cáo, không liên quan đến nội dung kháng cáo và không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 29 tháng 11 năm 2017, Lê Văn H đến dự đám cưới tại nhà ông Nguyễn Trọng T thuộc thôn B, xã P, huyện P, tỉnh Bình Phước. Đến khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, Đỗ Như L (người cùng thôn với H), ngồi bàn bên cạnh cầm một ly bia qua mời H và cả bàn uống rồi đi về bàn mình. Lúc sau, H qua hỏi L “lúc nãy mày nói gì”, L trả lời “tôi muốn sô lô với ông”, H nói “mày muốn sô lô ở đâu”, L nói “ở đâu cũng được”. H dùng tay phải tát vào mặt L một cái và hai bên xông vào đánh nhau nhưng được mọi người can ngăn thì H bỏ về nhà. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, Điểu H2, điều khiển xe mô tô (không biển số) chở L và Điểu T1 về; trên đường về, L nói H2 chở vào nhà H để nói chuyện thì H2 đồng ý. Khi đến nơi thì L, H2 đi vào nhà H, L đẩy cửa bước vào phòng khách và lớn tiếng gọi H ra nói chuyện. Lúc này H đang tắm, nghe tiếng của L thì H nghĩ L đến tìm mình đánh nên chạy ra bếp cầm con dao rựa dài 80cm (cán bằng tre dài 50, lưỡi bằng kim loại dài 30cm) đuổi chém liên tiếp nhiều nhát trúng người L gây thương tích ở tay trái, lưng trái và hông trái thì L bỏ chạy, H nhìn thấy vết thương ở lưng của L hở ra thì dừng lại đi vào trong nhà.

Theo bản kết luận giám định Y khoa - Pháp y số 319/2017/TgT ngày 21 tháng 12 năm 2017 của Trung tâm giám định Y khoa - Pháp y Sở y tế tỉnh Bình Phước xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại của Đỗ Như L là 13%

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2018/HS-ST ngày 14/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Bình Phước quyết định:

Tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38; Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH13, ngày 20/6/2017 của Quốc hội. Xử phạt bị cáo Lê Văn H 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày thi hành án.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Ngày 28/8/2018, bị cáo Lê Văn H có đơn kháng cáo xin hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

+ Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Bị cáo cho rằng bản thân không có hành vi côn đồ, mâu thuẫn xuất phát từ phía bị hại, sau đó bị hại cùng 02 người khác xông vào nhà bị cáo gây chuyện nên bị cáo mới lấy dao để phòng thủ. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình bị cáo hiện không còn chỗ ở, phải đi ở trọ; vợ bị cáo mới sinh con thứ ba, không thể lao động nên bị cáo là lao động chính trong gia đình để cho bị cáo hưởng án treo, có điều kiện làm việc để chăm sóc gia đình.

+ Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ. Đồng thời, Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là đã xem xét đầy đủ tình tiết giảm nhẹ. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cung cấp thêm tài liệu thể hiện có cha là ông Lê Văn H1 có công với cách mạng, đây cũng chỉ là tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét. Từ những phân tích trên, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Văn H khai nhận hành vi phạm tội như Bản án sơ thẩm đã nhận định. Xét lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng; phù hợp với vật chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định pháp y về thương tích trên cơ thể bị hại. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Do giữa bị cáo và bị hại có mâu thuẫn trước đó, nên vào khoảng 13 giờ ngày 29/11/2017, Đỗ Như L nói Điểu H2 chở đến nhà bị cáo H để nói chuyện thì bị cáo nghĩ L đến đánh bị cáo, nên bị cáo sử dụng một con dao rựa dài 80cm cầm bằng tay chém liên tiếp nhiều nhát gây thương tích ở lưng, hông và tay trái của bị hại gây thương tích cơ thể là 13%.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, dùng hung khí nguy hiểm xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác. Trong quá trình thực hiện tội phạm, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho người bị hại số tiền 70.000.000 đồng và bị hại đã làm đơn bãi nại giảm hình phạt cho bị cáo; bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Xét về nguyên nhân xảy ra vụ án cũng có phần lỗi của người bị hại; hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, con nhỏ, bị cáo là lao động chính trong gia đình. Do đó khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù là phù hợp với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi của bị cáo thực hiện.

Tại phiên tòa, bị cáo cung cấp thêm tài liệu thể hiện có cha là ông Lê Văn Hược có công với cách mạng, đây cũng chỉ là tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, không làm thay đổi căn bản những tình tiết giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo. Do vậy, kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo là không có cơ sở nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[5]. Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận, nên bị cáo Lê Văn H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

1. Không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Lê Văn H;

2. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 55/2018/HS-ST ngày 14 tháng 8 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Bình Phước.

Tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38; Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH13, ngày 20/6/2017 của Quốc hội.

Xử phạt bị cáo Lê Văn H 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày thi hành án.

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Lê Văn H phải chịu 200.000 đồng.

3. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Lê Văn H phải chịu 200.000 đồng.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

356
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 72/2018/HS-PT ngày 26/10/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:72/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về