Bản án 72/2018/DSST ngày 28/11/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 72/2018/DSST NGÀY 28/11/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 

Ngày 28 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 228/2018/TLST- HNGĐ, ngày 01 tháng 8 năm 2018 về tranh chấp Hôn nhân và Gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 160/2018/QĐXXST-HNGĐ, ngày 09 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hoàng Nhật T - sinh năm 1990

Trú tại: xóm M - xã M - huyện Q - tỉnh Nghệ An (có mặt);

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Đ - sinh năm 1984

Trú tại: xóm 5 - xã M - huyện Y - tỉnh Nghệ An (vắng mặt lần thứ hai);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn ly hôn đề ngày 13/7/2018, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án chị Trang trình bày: chị và anh Nguyễn Văn Đ kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có tìm hiểu, tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán và đăng ký kết hôn vào 27/12/2012, tại Ủy ban nhân dân xã M - huyện Y. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp bất đồng quan điểm từ đó dẫn đến tình cảm vợ chồng rạn nứt, mâu thuẫn ngày càng căng thẳng. Mặc dù gia đình hai bên đã khuyên nhủ hòa giải nhưng không đem lại kết quả gì. Chị và anh Đ cắt đứt mọi quan hệ tình cảm và sống ly thân cho đến nay. Chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn nữa, mục đích hôn nhân không đạt được, chị yêu cầu tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đ.

- Về con chung: Vợ chồng có 01con chung là cháu Nguyễn Nam K - sinh ngày 13/9/2013. Nay ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi con chung và không yêu cầu cấp dưỡng. Vì con còn quá nhỏ, anh Đ thường xuyên đi làm ăn xa nên thời gian và việc chăm sóc gần gũi con hằng ngày không bằng chị. Tại phiên tòa chị T cho biết hiện nay chị đang làm giáo viên trường tiều học thu nhập từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng/tháng, hơn nữa bên cạnh mẹ con chị còn có ông bà, anh chị em ruột bên đằng ngoại ở gần luôn hỗ trợ cho chị và con từ vật chất lẫn tinh thần. Nay chị đề nghị Tòa xem xét nguyện vọng nuôi con của chị.

- Về tài sản: Chị T không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về phía bị đơn anh Đ quá trình giải quyết, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh Đ vẫn không có mặt. Tòa án đã trực tiếp tống đạt giấy triệu tập và các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh Đ theo đúng quy định của pháp luật nhưng anh Đ vẫn không có mặt, vì vậy Tòa án đã làm thủ tục niêm yết công khai các văn bản tố tụng tại trụ sở UBND xã theo quy định tại điều 179 BLTTDS. Do đó Tòa án không thể tiến hành phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và cũng không lấy lời khai của anh Đ được.Tuy nhiên qua tài liệu do nguyên đơn cung cấp và qua biên bản xác minh tại xóm, xã thì tình trạng hôn nhân, con chung chưa thành niên giữa chị T và anh Đ cơ bản đúng như chị T trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa. Sau khi nghe ý kiến trình bày của chị T tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về tố tụng:

Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.

Trong quá trình giải quyết vụ án, toà án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho chị T và anh Đ, yêu cầu anh, chị có mặt tại Toà án để giải quyết vụ ánnhưng anh Đ không có mặt. Vì vậy Toà án đã lập biên bản theo  quy định của pháp luật tố tụng dân sự, làm cơ sở giải quyết vụ án.

Tòa án Quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập đến phiên toà và đã tống đạt hợp lệ cho các đương sự. Tại phiên toà lần thứ nhất ngày 31/10/2018 chị Trang có mặt, anh Đ vắng mặt không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà. Để tiếp tục giải quyết vụ án, Toà án tiếp tục tống đạt các văn bản tố tụng phiên toà lần thứ hai cho các bên đương sự tuy nhiên tại phiên toà hôm nay anh Đ tiếp tục vắng mặt không có lý do. Như vậy, anh Đ đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, căn cứ vào khoản 2 điều 227của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đối với bị đơn.

2. Về nội dung:

- Quan hệ hôn nhân: Xét hôn nhân giữa chị T và anh Đ là hôn nhân hợp pháp, tuân thủ theo quy định của pháp luật. Song qua xem xét thực tế thì thấy rằng cuộc sống chung của vợ chồng những năm gần đây không được hạnh phúc, mâu thuẫn liên tục xảy ra và đã thực sự căng thẳng, trầm trọng; hai bên đã sống ly thân, không còn quan tâm, trách nhiệm gì với nhau nữa. Trên cở sở đó xác định tình cảm vợ chồng không còn gắn kết với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được, việc chị T yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Đ là có căn cứ, cần chấp nhận.

- Quan hệ con chung: Quá trình giải quyết vụ án chị Trang có nguyện vọng yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng. Việc nuôi con vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của các bên vì vậy nguyện vọng của chị T là nguyện vọng chính đáng cần xem xét.

Theo chị T trình bày, thì xét hoàn cảnh hiện tại của anh Đ hiện nay thường xuyên đi làm ăn xa nên về điều kiện gần gũi và chăm sóc khéo léo con anh Đông không đảm bảo bằng chị T. Mặt khác hiện nay con chung còn quá nhỏ cần sự chăm sóc của người mẹ; tại phiên tòa chị trình bày chị đang giáo viên trường tiểu học có thu nhập trung bình từ 5.000.000 - 7.000.000 đồng/tháng đủ trang trải cuộc sống cho mẹ con, hơn nữa bên cạnh chị còn có bố mẹ, người thân hỗ trợ cho mẹ con cả vật chất lẫn tinh thần vì vậy cần tiếp tục giao cho chị T nuôi dưỡng đến khi trưởng thành là phù hợp với tình hình thực tế cũng như quy định của pháp luật.

- Quan hệ tài sản: Chị T không yêu cầu tòa án giải quyết nên miễn xét.

*Về án phí: Chị Hoàng Nhật T phải nộp án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 28; điều 179; khoản 2 điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; điều 51, 56, 81.82.83 của Luật Hôn Nhân và Gia đình;

- Về hôn nhân: Xử cho chị Hoàng Nhật T được ly hôn anh Nguyễn Văn Đ;

-Về con chung: Buộc anh Nguyễn Văn Đ giao 01 con chung là cháu Nguyễn Nam K - sinh ngày 13/12/2013 cho chị Hoàng Nhật T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành.Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con cho anh Đông

Anh Đ không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

- Án phí: Căn cứ vào khoản 4, điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điều 27 Nghị quyết 326 /2016/UBTVQH, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án.

Buộc chị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, án phí của chị Đ được tính trừ vào tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Yên Thành (Biên lai thu tiền số: 0003223, ngày 30 tháng 7 năm 2018), chị Trang đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt chị T, vắng mặt anh Đ. Tuyên bố để các bên đương sự biết, nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

393
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 72/2018/DSST ngày 28/11/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:72/2018/DSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:28/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về