Bản án 72/2017/HSST ngày 28/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 72/2017/HSST NGÀY 28/07/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 76/2017/HSST ngày 16 tháng 6 năm 2017 đối với:

-Bị cáo: Hoàng Ngọc S, sinh năm: 1995 tại BT.

Hộ khẩu thường trú: Thôn ĐT, xã TH, huyện HT, tỉnh BT; Chỗ ở: Khu 12, xã LĐ, huyện LT, tỉnh Đồng Nai; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;  Nghề nghiệp: Tài xế; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông Hoàng Ngọc H và bà Tạ Thị L. Bị cáo là con nhỏ nhất trong gia đình có 03 anh em và chưa có vợ con.

Tiền án: Không. Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt từ ngày 16/4/2017 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyệnLong Thành (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Hoàng Ngọc G, sinh năm:1980 (có mặt).

Địa chỉ: Khu 12, xã LĐ, huyện LT, tỉnh Đồng Nai.

NHẬN THẤY

bị cáo Hoàng Ngọc S bị Viện Kiểm sát nhân dân huyện Long Thành truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào lúc 22 giờ 30 phút ngày 15/4/2017, Công an huyện Long Thành phối hợp cùng Công an xã LĐ tuần tra, kiểm soát địa bàn, đến khu vực gần quán cà phê “ĐĐ” thuộc khu 12, xã LĐ, huyện Long Thành thì phát hiện một nam thanh niên đang đi trên đường bỏ chạy, có biểu hiện nghi vấn. Lực lượng Công an đuổi theo bắt giữ được thanh niên trên khai tên Hoàng Ngọc S, sinh năm 1995, Hộ khẩu thường trú: Thôn ĐT, xã TH, huyện HT, tỉnh BT, Chỗ ở: khu 12, xã LĐ, huyện LT, tỉnh ĐN. Kiểm tra trên người phát hiện trong túi quần của S có03 túi ni lon được hàn kín 02 đầu, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng không rõ hình (S khai nhận đó là ma túy tổng hợp còn gọi là ma túy đá) cùng số tiền 2.500.000 đồng.

Trước Cơ quan điều tra Công an huyện Long Thành, Hoàng Ngọc S khai nhận: S bắt đầu sử dụng ma túy tổng hợp từ tháng 02/2017, cũng trong thời gian này S quen biết được B nhưng không rõ lai lịch và địa chỉ của B và thường sử dụng ma túy tổng hợp cùng B. Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 15/4/2017 trong lúc S đi mua thuốc lá hút, khi đến khu vực trên thì gặp B, B đưa 03 túi ma túy tổng hợp nêu trên cho S nhờ S cất giữ, B chạy về nhà nghỉ lấy ít đồ dùng cá nhân lát sau B sẽ quay lại lấy. Biết rõ 03 túi trên có chứa ma túy tổng hợp, do nể nang B nên S nhận lời cất giữ và định đi đến quán cà phê “ĐĐ” đứng chờ B thì bị lực lượng công an tuần tra bắt quả tang như đã nêu trên.

Tại bản kết luận giám định số 134/PC54-GĐMT ngày 21/4/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Tinh thể màu trắng chứa trong mẫu M được niêm phong gửiđến giám định có trọng lượng là: 4,9619 gam có Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trongDanh mục II, số thứ tự 67, Nghị định 82, ngày 19/7/2013 của Chính phủ. Hàmlượng Methamphetamine là: 56,66% (bút lục số 24).

Vật chứng vụ án: 03 túi ni lon chứa tinh thể rắn chưa rõ hình và số tiền2.500.000 đồng. Xét thấy nguồn gốc số tiền trên là của anh Hoàng Ngọc G (là anh ruột của bị cáo S) trước đó đã cho S mượn để tiêu xài, không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Long Thành đã giao trả cho anh G.

Tại bản cáo trạng số 73/CT-VKS ngày 14 tháng 6 năm 2017 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố bị cáo S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo S từ 24 tháng đến 30 tháng tù.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu có tại hồ sơ; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Ngọc S khai nhận: Vào lúc 22 giờ 30 phút ngày 15/4/2017, tại khu vực gần quán cà phê “ĐĐ” thuộc khu 12, xã LĐ, huyện LT. Hoàng Ngọc S đã có hành vi cất giữ ma túy tổng hợp trong người thì bị lực lượng Công an bắt quả tang. Qua giám định ma túy có trọng lượng là: 4,9619 gam có Methamphetamine, hàm lượng là 56,66%.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai người làm chứng và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm mất an ninh, trật tự tại địa phương, là một trong những nguyên nhân của các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Bị cáo là người nghiện ma túy, nhận thức rõ được tác hại của ma túy nhưng vẫn cất giấu trái phép trong người. Hành vi của bị cáo Hoàng Ngọc S đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạtđược quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi lượng hình Hội đồng xét xử có xem xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên xem xét áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Ngoài ra, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” có quy định hình phạt nhẹ hơn khoản 1 Điều194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội kể từ ngày 01/7/2016 theo khoản 3 Điều 7 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội để giải quyết có lợi cho bị cáo.

Đối với đối tượng tên B, đến nay chưa xác định được lai lịch và địa chỉ nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành tiếp tục xác minh điều tra xử lý sau.

Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự và áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự; Cần tịch thu tiêu hủy 01 gói mẫu vật sau giám định niêm phong số 134/PC54-GĐMT ngày ngày 21/4/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hoàng Ngọc S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009); Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; Khoản 3 Điều 7 và điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Hoàng Ngọc S 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 16/4/2017.

Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự, căn cứ Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự; Tịch thu tiêu hủy 01 gói mẫu vật sau giám định niêm phong số 134/PC54-GĐMT ngày 21/4/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai. Vật chứng này hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Long Thành theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/6/2017.

Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo S phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 72/2017/HSST ngày 28/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:72/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về