Bản án 719/2018/HSPT ngày 26/10/2018 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 719/2018/HSPT NGÀY 26/10/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 26 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 619/2018/TL-HSPT ngày 08 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo Trần Đình T, Tô Văn Th phạm tội “Đánh bạc” do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2018/HS-ST ngày 27 tháng 6 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang.

* Các bị cáo có kháng cáo:

1. Tô Văn Th, sinh năm 1975 tại Tuyên Quang; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn T1, xã PL, huyện HY, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; văn hóa: Lớp 8/12; dân tộc: Hoa; con ông Tô Văn N và bà Hà Thị Ch; có vợ là Ma Thị N, có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

2. Trần Đình T, sinh năm 1975 tại Lào Cai; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Tổ 43, phường KT, thành phố LC, tỉnh Lào Cai; nghề nghiệp: Lao động tự do; văn hóa: Lớp 10/12; con ông Trần Đình T2 và bà Chu Thị T3; có vợ là Phạm Thị Thu H, có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

Trong vụ án còn có các bị cáo khác, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không bị kháng nghị (không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Trần Đình T và Tô Văn Th đều là chủ trâu chọi tại các lễ hội nên quen biết nhau từ trước. T có ý định mua lại con trâu của của chị Hoàng Thị Chl (trú tại: Thôn 4, xã Việt Thành, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái) để làm trâu chọi nên đã hỏi chị Chl ngày 07/01/2018 cho T mượn trâu mang đi chọi thử, nếu chọi tốt T sẽ mua để làm trâu chọi. Khoảng 20 giờ ngày 06/01/2018, T gọi điện cho Tô Văn Th rủ Th mang trâu của Th đi chọi thử với trâu của T để xem trâu chọi có tốt không, Th nhất trí. T thống nhất với Th, trưa ngày 07/01/2018, hai người sẽ gặp nhau tại Suối Khoáng, xã Phú Lâm, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang để tìm địa điểm tổ chức chọi trâu. Sau khi thống nhất với T, Th gọi điện thoại cho anh Tô Văn Tr (là anh trai Th) hỏi mượn trâu của anh Tr mang đi chọi thử (vì trước đó thấy trâu của Tr khi thả ra ruộng hay đánh nhau với trâu khác) nên Th trao đổi với anh Tr là nếu chọi thử mà chọi được thì Th sẽ mua lại trâu của anh Tr để làm trâu chọi. Anh Tr đồng ý. Sau đó, Th điện thông báo cho một số bạn bè của Th là Trịnh Quang T4, Nguyễn Xuân Tr, Vũ Đình Dg nói cho họ biết về việc Th sẽ cho trâu của mình chọi thử với trâu của T và rủ mọi người đi xem. Đồng thời, Th điện cho anh Đặng Văn Trl (là người làm thuê cho Th) và Hà Văn Ch2 (đang làm thuê cho Nguyễn Xuân Tr) bảo Trl và Ch2 đến nhà anh Tô Văn Tr dắt trâu cho Th và thuê xe tải của Đào Quang M chở trâu xuống xã Phú Lâm.

Khoảng 08 giờ ngày 07/01/2018, Th đến nhà anh Tô Văn Tr thì M cũng lái xe tải cùng Chiến đến nơi. Một lúc sau, Trúc và Chúng Đại Nghĩa (do Trl rủ đi cùng) cũng đến. Th bảo Trl và Ch2 dắt trâu đưa lên xe tải, sau đó tất cả cùng nhau chở trâu đi xuống xã Phú Lâm. Còn Trần Đình T cũng nhờ Nguyễn Tr Gi lái xe tải cùng T chở trâu sang xã Phú Lâm. Khoảng 11 giờ cùng ngày, Th gặp T tại xã Phú Lâm và cùng nhau đi ăn cơm trưa. Trong lúc ăn cơm, T rủ Th chọi trâu cá cược ăn tiền. T nói với Th do trâu của Th to hơn trâu của T, nếu cá cược thì trâu của Th phải chấp trâu của T với tỷ lệ 10 ăn 8, nhưng Th chưa đồng ý với T ngay mà bảo khi nào chọi trâu sẽ trả lời.

Khoảng 13h30’, T, Th đến địa điểm chọi trâu thì thấy nhiều người tập trung ở đó, có người hỏi chọi trâu có cá cược không thì Th nói với họ là có cá cược tỷ lệ 10 ăn 8 như T đã nói với Th. Sau đó, có một số người đến nhờ Th đặt tiền để cá cược với trâu của T, cụ thể: Vũ Đình Dg 5.000.000 đồng; Trần Văn H1 900.000 đồng; Trịnh Quang T4 10.000.000 đồng (5.000.000 đồng của T4 còn 5.000.000 đồng của Nguyễn Xuân Tr nhờ T4 đặt cược giúp); Đào Quang M 5.000.000 đồng; Trắng Quốc Cg 300.000 đồng. Th ghi tên và số tiền cá cược của những người nhờ Th vào một tờ giấy A4. Tất cả các đối tượng trên đều nhờ Th cá cược trâu của Th sẽ thắng trâu của T với tỷ lệ 10 ăn 8, việc thanh toán tiền sẽ được thực hiện sau khi kết thúc trận đấu có kết quả chọi trâu Th, thua. Nếu trâu của Th thắng trâu của T thì Th sẽ nhận tiền từ T và trả cho Dương 4.000.000 đồng; trả cho Hà 720.000 đồng; trả cho Tuyên 8.000.000 đồng (trong đó của Tr 4.000.0000 đồng); trả cho M 4.000.000 đồng và trả cho Cg 240.000 đồng. Ngược lại, nếu trâu của Th thua trâu của T thì Th phải thu tiền của những người trên và trả lại cho T. Tổng số tiền 5 người trên nhờ Th cá cược là 21.200.000 đồng; Th lấy tiền của Tháng bỏ ra thêm 5.000.000 đồng = 26.200.000 đồng để tham gia cá cược với T. Sau khi tổng hợp được số tiền trên, Th nhất trí cá cược với T và thông báo cho T biết Th có 26.000.000 đồng. Hai bên thống nhất tỷ lệ 10 ăn 8, nếu trâu của T thắng thì Th sẽ phải trả cho T 26.000.000 đồng, còn nếu ngược lại thì T sẽ phải trả cho Th 20.800.000 đồng. Tuy nhiên, T và Th thống nhất nếu trâu của T thuê thì T chỉ phải trả cho Th 20.000.000 đồng, không tính số tiền lẻ 800.000 đồng. Sau khi thống nhất xong, T và Th cho hai con trâu vào bãi ruộng để chọi. Khi hai con trâu húc nhau khoảng được 05 phút, chưa phân thắng, thua thì Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Tuyên Quang phát hiện lập biên bản kiểm tra, tạm giữ 2 con trâu và yêu cầu 60 người có mặt tại hiện trường về trụ sở Cơ quan điều tra làm việc.

Như vậy, tổng số tiền các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc là 46.200.000 đồng; trong đó: Trần Đình T sử dụng số tiền 20.000.000 đồng để đánh bạc với Tô Văn Th; Tô Văn Th sử dụng 5.000.000 đồng đánh bạc và giúp sức cho Trịnh Quang T4, Nguyễn Xuân Tr, Vũ Đình Dg, Đào Quang M; Trần Văn H và Trắng Quốc Cg đánh bạc với số tiền 21.200.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2018/HSST ngày 27/6/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang đã căn cứ khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự; tuyên bố các bị cáo Trần Đình T, Tô Văn Th phạm tội “Đánh bạc”. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Tô Văn Th 01 năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Phạt tiền 15.000.000 đồng để sung công quỹ Nhà nước.

Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Đình T 01 năm tù cho hưởng án treo; thời gian thử thách 02 năm, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 27/6/2018. Giao bị cáo Trần Đình T cho Ủy ban nhân dân phường Kim Tân, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Phạt tiền 15.000.000 đồng để sung công quỹ Nhà nước.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo khác, hình phạt bổ sung và thông báo quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 06/7/2018, bị cáo Tô Văn Th kháng cáo xin giảm hình phạt và hưởng án treo; ngày 10/7/2018, bị cáo Trần Đình T kháng cáo xin giảm hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Trần Đình T, Tô Văn Th thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết; T xin được chuyển sang loại hình phạt khác như phạt tiền và bị cáo xuất trình hợp đồng lao động, mức lương tháng thể hiện bị cáo có đủ điều kiện để thi hành; Th xin được hưởng án treo với các lý do: Mẹ bị cáo 85 tuổi, đau ốm liên miên; con nhỏ; bị cáo có việc làm và nơi cư trú ổn định; quá trình chờ giải quyết vụ án này, bị cáo đã hai lần báo với Cơ quan điều tra để bắt 2 đối tượng mua bán ma túy tại huyện Hàm Yên; bị cáo cam kết thực hiện tốt nghĩa vụ của mình trong gia đình cũng như tại địa phương.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi nghe các bị cáo trình bày đã kết luận: Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo về tội “Đánh bạc” là có căn cứ, đúng pháp luật. Bị cáo T có tình tiết mới thể hiện bị cáo có khả năng thi hành hình phạt tiền nên áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp. Đối với bị cáo Th, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ: Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tại phiên tòa, bị cáo xuất trình tình tiết mới đã tích cực giúp cơ quan điều tra phát hiện, xử lý tội phạm; bị cáo có ý thức nộp phạt; được cơ quan, địa phương xác nhận có việc làm và nơi cư trú ổn định, không có vi phạm gì. Do đó, bị cáo có đủ điều kiện để được hưởng Điều 65 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của cả hai bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử có các nhận định sau đây:

[1] Lời khai nhận tội của các bị cáo Trần Đình T, Tô Văn Th tại cơ quan điều tra và các phiên tòa phù hợp với các bị cáo khác trong cùng vụ án, vật chứng cơ quan điều tra thu giữ được cùng toàn bộ những chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong quá trình điều tra. Do đó, có căn cứ để xác định hành vi phạm tội của các bị cáo Trần Đình T, Tô Văn Th như sau: Khoảng 13h30’ ngày 7/01/2018, tại khu vực Suối Khoáng, xã Phú Lâm, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, T rủ Th chọi trâu có cá cược tiền. T bỏ 20.000.000 đồng để cá cược với Th. Th nói với một số đối tượng có cá cược nên họ đã nhờ Th đặt tiền để cá cược với trâu của T, cụ thể: Vũ Đình Dg 5.000.000 đồng; Trần Văn H 900.000 đồng; Trịnh Quang T4 10.000.000 đồng (5.000.000 đồng của T4 còn 5.000.000 đồng của Nguyễn Xuân Tr nhờ T4 đặt cược giúp); Đào Quang M 5.000.000 đồng; Trắng Quốc Cg 300.000 đồng. Th ghi tên và số tiền cá cược của những người nhờ Th vào một tờ giấy A4, cá cược trâu của Th sẽ thắng trâu của T với tỷ lệ 10 ăn 8. Việc thanh toán tiền sẽ được thực hiện sau khi kết thúc trận đấu có kết quả chọi trâu thắng, thua. Nếu trâu của Th thắng trâu của T thì Th sẽ nhận tiền từ T và trả cho những người nhờ cá cược, nếu trâu của Th thua thì Th phải thu tiền của những người trên và trả lại cho T. Khi hai con trâu húc nhau được khoảng 05 phút, chưa phân thắng, thua thì Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Tuyên Quang phát hiện lập biên bản kiểm tra, tạm giữ 2 con trâu và yêu cầu 60 người có mặt tại hiện trường về trụ sở Cơ quan điều tra làm việc. Tổng số tiền cơ quan điều tra thu giữ, chứng minh được các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 46.200.000 đồng. Trong đó Trần Đình T sử dụng 20.000.000 đồng để đánh bạc với Th; Th sử dụng 5.000.000 đồng đánh bạc và giúp sức cho Trịnh Quang T4, Nguyễn Xuân Tr, Vũ Đình Dg, Đào Quang M, Trần Văn H, Trắng Quốc Cg đánh bạc với số tiền 21.200.000 đồng.

[2] Các bị cáo là người có đủ năng lực nhận thức xã hội, biết pháp luật cấm đánh bạc dưới mọi hình thức nhưng đã bất chấp pháp luật, cùng nhau đánh bạc nhằm thu lời bất chính. Hành vi đó đã cấu thành tội “Đánh bạc” thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự 2015. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điều khoản này để xử phạt các bị cáo là đúng pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, là mầm mống của các tệ nạn xã hội cũng như tội phạm khác. Trong vụ án này, bị cáo T, Th đều là người trực tiếp tìm địa điểm, chuẩn bị trâu chọi để cùng cá cược nhau bằng tiền.

[3] Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Tô Văn Th, Hội đồng xét xử thấy rằng: Th được T rủ cá cược khi chọi trâu nhưng chính bị cáo lại là người giúp sức cho Trịnh Quang Tuyên, Nguyễn Xuân Tr, Vũ Đình Dg, Đào Quang M, Trần Văn H, Trắng Quốc Cg cùng cá cược. Bị cáo đã ghi tên, số lượng tiền đánh bạc và thu tiền của các đối tượng này. Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo có vai trò tích cực hơn T là chính xác và cũng đã áp dụng đúng, đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự; tại cơ quan điều tra và các phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, để xử phạt bị cáo 01 năm tù và phạt tiền 15.000.000 đồng để sung quỹ Nhà nước là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo xuất trình tình tiết giảm nhẹ mới là đã tích cực, tố giác tội phạm, giúp cơ quan điều tra bắt, khởi tố đối với 02 vụ án mua bán ma túy tại huyện Hàm Yên. Xét thấy, bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm giản đơn; có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng; hiện tại bị cáo có việc làm và nơi cư trú ổn định; hoàn cảnh gia đình khó khăn, mẹ già yếu, con nhỏ rất cần sự chăm sóc của bị cáo nên có thể khoan hồng, cho bị cáo được hưởng án treo như đề nghị của ông Kiểm sát viên tại phiên tòa cũng đảm bảo giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của Trần Đình T, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo là người gọi điện cho Th hẹn chọi trâu; rủ Th cá cược bằng tiền; mang trâu mình mượn đến địa điểm chọi. Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã áp dụng đúng, đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo đó là: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự; tại cơ quan điều tra và các phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo đã tố giác tội phạm trong một vụ án giết người tại xã Minh Hương, huyện Hàm Yên; bố mẹ bị cáo đều được tặng Huy chương vì sự nghiệp giáo dục; có nơi cư trú ổn định, để phạt bị cáo 01 năm tù cho hưởng án treo là có căn cứ. Tuy nhiên, xét bị cáo phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, không có tình tiết tăng nặng; phạm tội với tính chất đồng phạm giản đơn, do bộc phát; khi các bị cáo vừa cho trâu chọi được khoảng 5 phút thì đã bị phát hiện bắt quả tang; bị cáo hiện là Phó giám đốc Công ty TNHH một thành viên xây dựng Đức Long Lai Châu có mức lương 19.000.000 đồng/tháng. Do đó có thể xem xét áp dụng loại hình phạt nhẹ hơn là phạt tiền đối với bị cáo như đề nghị của ông Kiểm sát viên tại phiên tòa cũng đảm bảo tính giáo dục riêng bị cáo cũng như răn đe phòng ngừa chung.

[5] Do kháng cáo của các bị cáo được chấp nhận, theo quy định của pháp luật, các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Từ nhận định trên, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm đ, e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự;

QUYẾT ĐỊNH

1. Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Đình T, Tô Văn Th; sửa quyết định về phần hình phạt đối với Trần Đình T, Tô Văn Th tại Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2018/HS-ST ngày 27/6/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang, cụ thể như sau:

- Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; các điểm i, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt Tô Văn Th 01 năm tù về tội “Đánh bạc”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (ngày 26/10/2018). Phạt tiền bị cáo 15.000.000 đồng để sung quỹ Nhà nước. Giao bị cáo Tô Văn Th cho UBND xã Phù Lưu, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp Tô Văn Th thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự. “Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt Trần Đình T 80.000.000 (tám mươi triệu) đồng về tội “Đánh bạc”.

2. Các bị cáo Trần Đình T, Tô Văn Th không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 26/10/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

380
  • Tên bản án:
    Bản án 719/2018/HSPT ngày 26/10/2018 về tội đánh bạc
  • Cơ quan ban hành:
  • Số hiệu:
    719/2018/HSPT
  • Cấp xét xử:
    Phúc thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hình sự
  • Ngày ban hành:
    26/10/2018
  • Từ khóa:
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 719/2018/HSPT ngày 26/10/2018 về tội đánh bạc

Số hiệu:719/2018/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về