Bản án 71/2021/HS-PT ngày 09/03/2021 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 71/2021/HS-PT NGÀY 09/03/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 09 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 18/2021/TLPT-HS ngày 08 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo Trần Văn T (K) về tội “Đánh bạc”, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 85/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện CưM’gar, tỉnh Đắk Lắk.

* Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Trần Văn T (tên gọi khác: K); sinh năm: 1964; tại: tỉnh Thái Bình; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Buôn ĐA, xã Đ, huyện CM, tỉnh Đắk Lắk; chỗ ở hiện nay: Buôn KH, xã Đ, huyện CM, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 7/12; con ông Trần Đình B (đã chết) và bà Bùi Thị M; bị cáo có vợ là Châu Thị Thái V và 05 con, con lớn nhất sinh năm: 1990, con nhỏ nhất sinh năm: 2011; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13/8/2020 đến ngày 19/8/2020, hiện tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Mai Quốc A – Văn phòng Luật sư A – Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 45 phút ngày 12/8/2020 tại căn nhà thuộc buôn KH, xã Đ, huyện CM, tỉnh Đắk Lắk, Trần Văn T tham gia đánh bạc dưới hình thức ghi số đề với Ngô Văn D và Võ Quang C thắng thua bằng tiền Việt Nam đồng, kết quả thắng thua căn cứ vào kết quả xổ số kiến thiết đài Đà Nẵng mở thưởng vào lúc 17 giờ 15 phút ngày 12/8/2020. Ngô Văn D đọc dãy số “088x20, 88x100, 97x60, 79x60” và T viết vào 01 tờ giấy trắng kích thước (4,5x4,5)cm với nội dung: “ Đà Năng 12/8 *088x20 *88x100 *97x60 *79x60 TC 3360”, sau đó D đưa cho T số tiền 3.400.000đ (ba triệu bốn trăm ngàn đồng), T trả lại cho D số tiền dư là 40.000đ (bốn mươi ngàn đồng) và T đưa tờ giấy trên cho D. Giải thích dãy số trên như sau: D đặt cược vào con số 088 là 20 điểm, con số 88 là 100 điểm, con số 97 là 60, con số 79 là 60 điểm, trong đó mỗi điểm tương ứng với số tiền là 14.000đ (mười bốn ngàn đồng). Tổng số tiền D đánh bạc dưới hình thức ghi số đề là (20+100+60+60) = 240 điểm, tương ứng với số tiền (240 x 14.000đ) = 3.360.000đ (ba triệu ba trăm sáu mươi ngàn đồng). Võ Quang C đọc dãy số “150-35-150, 47x100, 11x50” và T viết vào 01 tờ giấy màu trắng kích thước (3,5x4,5) cm với nội dung: “ Đà Năng 12/8 150-35-150 *47x100 *11x50 TC 2400đ” sau đó C đưa cho T số tiền 2.400.000đ (Hai triệu bốn trăm ngàn đồng) và T đưa cho C tờ giấy trên. Giải thích dãy số trên như sau: C đặt cược vào số 35 ở giải tám là 150.000đ (Một trăm năm mươi ngàn đồng), đặt cược số 35 ở hai số cuối của giải đặc biệt là 150.000đ (Một trăm năm mươi ngàn đồng); đặt cược số 47 là 100 điểm, đặt cược con số 11 là 50 điểm, mỗi điểm tương ứng với số tiền là 14.000đ. Tổng số điểm C tham gia đánh bạc dưới hình thức ghi số đề là (100+50)=150 điểm, tương ứng với số tiền là (150 x 14.000đ) = 2.100.000đ (Hai triệu một trăm ngàn đồng). Tổng số tiền mà C đánh bạc dưới hình thức ghi số đề là (2.100.000đ + 300.000đ) = 2.400.000đ (Hai triệu bốn trăm ngàn đồng). Đến khoảng 16 giờ 50 phút ngày 12/8/2020, Đội Cảnh sát Hình sự Công an huyện CM, tỉnh Đắk Lắk phối hợp cùng Công an xã Đ phát hiện, bắt quả tang Trần Văn T đang tham gia đánh bạc dưới hình thức ghi số đề cho Ngô Văn D và Võ Quang C, thu giữ toàn bộ số tiền đánh bạc và một số tài liệu, công cụ phục vụ cho việc ghi số đề. Tại thời điểm bắt quả tang chưa có kết quả xổ số kiến thiết Đà Nẵng ngày 12/8/2020.

Cách thức tính thắng thua dưới hình thức ghi số đề như sau: Nếu người ghi số đề cá cược 02 con số cuối sẽ xuất hiện ở các giải của kết quả xổ số, sau khi có kết quả xổ số nếu như 02 con số cuối của các giải trùng với 02 con số mà người ghi đề đã cá cược thì người ghi đề thắng với tỉ lệ 1 điểm thắng 70.000 đồng (bảy mươi ngàn đồng); nếu người ghi số đề cá cược 03 con số cuối sẽ xuất hiện ở các giải của kết quả xổ số, sau khi có kết quả xổ số nếu như 03 con số cuối sẽ xuất hiện ở các giải của kết quả xổ số mà người ghi đề đã cá cược thì người ghi đề thắng với tỉ lệ 1 điểm thắng 500.000đ (năm trăm ngàn đồng); còn khi kết quả xổ số không có những con số như người ghi đề đã cá cược thì người nhận ghi số đề thắng số tiền cược của người ghi đề. Số tiền cá cược được tính như sau: 1 điểm khi đánh bao lô xổ số kiến thiết Miền Trung tương ứng với số tiền là 14.000đ (Mười bốn ngàn đồng).

Quá trình điều tra còn xác định: Ngoài việc đánh bạc dưới hình thức ghi số đề bị bắt quả tang trên, thì Trần Văn T tham gia đánh bạc với những người khác như sau:

Trong ngày 12/8/2020 Trần Văn T tham gia đánh bạc dưới hình thức ghi số đề với Bùi Quang B số tiền là 140.000đ (Một trăm bốn mươi ngàn đồng) và những người khác (chưa rõ nhân thân lai lịch) với tổng số tiền là 6.583.000đ (Sáu triệu năm trăm tám mươi ba ngàn đồng).

Ngoài ra trước đó ngày 11/8/2020 Trần Văn T cũng tham gia đánh bạc dưới hình thức ghi số đề với những người khác (chưa rõ nhân thân lai lịch), thắng thua bằng tiền Việt Nam đồng, kết quả thắng thua căn cứ vào kết quả xổ số kiến thiết Đắk Lắk mở thưởng ngày 11/8/2020 với tổng số tiền ghi số đề là 6.427.000đ (Sáu triệu bốn trăm hai mươi bảy ngàn đồng). Đối chiếu với kết quả xổ số kiến thiết Đắk Lắk mở thưởng ngày 11/8/2020 thì trong những con số người ghi số đề tham gia cá cược có 03 số trúng gồm: “38x5, 28x1, 90-5” tương ứng với số tiền như sau: “38x5” tương ứng với số tiền là (5 điểm x 70.000đ)= 350.000đ (Ba trăm năm mươi ngàn đồng); “28x1” tương ứng với số tiền (1 điểm x 70.000đ) = 70.000đ (bảy mươi ngàn đồng); “90-5” tương ứng với số tiền là (5 điểm x 70.000đ) = 350.000đ (Ba trăm năm mươi ngàn đồng). Tổng số tiền người ghi số đề cá cược thắng là 770.000đ (Bảy trăm bảy mươi ngàn đồng), T đã giao số tiền này cho những người ghi số đề thắng. Như vậy tổng số tiền T sử dụng đánh bạc dưới hình thức ghi số đề với những người khác (chưa rõ nhân thân lai lịch) vào ngày 11/8/2020 là 6.427.000đ + 770.000đ = 7.197.000đ (Bảy triệu một trăm chín mươi bảy ngàn đồng).

Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Huyện CM, đã trưng cầu giám định đối với chữ viết tại các phơi đề do bị cáo giao nộp, so với chữ viết mẫu của bị cáo. Tại bản Kết luận giám định số 859/KLGĐ-PC09, ngày 15/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chữ viết trong các tài liệu cần giám định là do cùng một người viết ra.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 85/2020/HS - ST ngày 25/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện CưM’gar, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “Đánh bạc” - Xử phạt bị cáo Trần Văn T 07 (Bảy) tháng tù, Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được khẩu trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 13/8/2020 đến ngày 19/8/2020.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 27/11/2020 bị cáo có đơn kháng cáo với nội dung đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng và bản án sơ thẩm đã nêu cũng như lời khai của của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, tại cơ quan điều tra và thay đổi nội dung kháng cáo, đề nghị cấp phúc thẩm áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét mức hình phạt 07 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội do bị cáo gây ra; các tình tiết giảm nhẹ đã được cấp sơ thẩm áp dụng đầy đủ, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ mới. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

* Ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo: Mức hình phạt 07 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là quá nghiêm khắc. Bởi lẽ, bị cáo đã ăn năn, hối cải, thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo có nhân thân tốt, gia đình có công với cách mạng, hiện nay bị cáo là lao động chính trong gia đình, phải chăm sóc hai mẹ già đã ngoài 80 tuổi, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng và có thu nhập ổn định, đủ điều kiện để áp dụng hình phạt tiền. Do đó, đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo của bị cáo, xử phạt bị cáo bằng hình phạt chính là phạt tiền từ 20.000.000 đồng trở lên.

Bị cáo đồng ý với ý kiến của người bào chữa và không bào chữa, tranh luận gì thêm, chỉ đề nghị HĐXX áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Xét lời khai của bị cáo tại phiên toà, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở pháp lý để kết luận: Vào các ngày 11/8/2020 và 12/8/2020, bị cáo Trần Văn T đã có hành vi đánh bạc dưới hình thức ghi số đề cho những người khác, thắng thua bằng tiền Việt Nam đồng với tổng số tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc là 19.680.000 đồng. Trong đó ngày 11/8/2020 bị cáo ghi số đề cho những người khác số tiền 7.197.000đ. Ngày 12/8/2020 bị cáo ghi số đề cho C, D và một số người khác số tiền 12.483.000đ. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ, bảo đảm đúng người, đúng tội.

[2]. Xét kháng cáo xin được hưởng hình phạt tiền của bị cáo thấy rằng: Mức hình phạt 07 tháng tù mà cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội do bị cáo gây ra.

Quá trình điều tra vụ án và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và đã tự nguyện nộp toàn bộ số tiền thu lợi bất chính từ việc đánh bạc để bảo đảm công tác thi hành án. Tại phiên toà bị cáo trình bày hiện nay mẹ bị cáo đã già, con còn nhỏ, gia đình bị cáo có công với cách mạng, bố bị cáo được tặng thưởng Huân chương chiến sỹ vẻ vang. Hiện tại bị cáo làm nghề buôn bán, có thu nhập khoảng 20 triệu /tháng. Do đó, bị cáo xác định bị cáo khả năng kinh tế để thực hiện được hình phạt tiền theo quy định pháp luật. Vì vậy, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo, để bị cáo có điều kiện giúp đỡ gia đình, ổn định cuộc sống.

Nhận thấy, bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của bị cáo là vi phạm pháp luật, mong muốn được tự rèn luyện, tu dưỡng bản thân trở thành người công dâ tốt. Việc áp dụng hình phạt tiền áp dụng đối với bị cáo, không những tiết kiệm được những chi phí xã hội cho việc giáo dục, cải tạo, hạn chế mặt tiêu cực có thể phát sinh do áp dụng hình phạt tù, mặt khác vẫn đạt được mục đích cải tạo, giáo dục và phòng, chống tội phạm, đồng thời sung vào công quỹ nhà nước khoản tiền nhất định sau khi bị cáo thực hiện chấp hành bản án. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy, kháng cáo của bị cáo là có căn cứ, cần chấp nhận.

[3]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn T – Sửa bản án sơ thẩm số: 85/2020/HS - ST ngày 25/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện CưM’gar, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.

[2]. Điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 35 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Trần Văn T (tên gọi khác: K) 40.000.000 (bốn mươi triệu) đồng sung công quỹ Nhà nước về tội Đánh bạc.

[3] .Về án án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Trần Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

313
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2021/HS-PT ngày 09/03/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:71/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về