Bản án 71/2021/HNGĐ-ST ngày 31/08/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 71/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 31 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 223/2021/TLST- HNGĐ ngày 26 tháng 3 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2021/QĐXX - ST ngày 30 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự :

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh T - Sinh năm 1983 “ Có mặt”

Bị đơn : Anh Tô Hoài N - Sinh năm 1979 “ Vắng mặt” Cùng địa chỉ: Phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh T trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Tô Hoài N kết hôn với nhau vào ngày 21 tháng 12 năm 2009 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Mỹ Hằng, Yên Sơn, Tuyên Quang. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại số nhà 578 Quang Trung, Phường Đ, thành phố T. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, anh N chơi bời, nợ nần. Nay chị T xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chị đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa giải quyết cho chị được ly hôn anh anh Tô Hoài N.

Về con: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Tô Vũ Huy Th, sinh ngày 16/10/2010 và cháu Tô Vũ Nguyên Gi, sinh ngày 28/4/2019. Ly hôn chị T đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi cháu Tô Vũ Nguyên Gi, giao cháu Tô Vũ Huy Th cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và công nợ: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh Tô Hoài N trình bày:

Về hôn nhân: Thời gian kết hôn, điều kiện kết hôn anh N đồng ý như chị T trình bày. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Lý do vợ chồng phát sinh mâu thuẫn là do không hợp nhau, anh N xét thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn, mong muốn vợ chồng được đoàn tụ. Nay chị T khởi kiện ly hôn, anh N không đồng ý ly hôn, đề nghị Tòa án bác đơn ly hôn của chị T.

Về con: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Tô Vũ Huy Th, sinh ngày 16/10/2010 và cháu Tô Vũ Nguyên Gi, sinh ngày 28/4/2019. Nếu chị T cương quyết ly hôn, anh N đề nghị Tòa án giải quyết giao cháu Tô Vũ Huy Th cho anh được trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Tô Vũ Nguyên Gi cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng.

Về tài sản, công nợ: Anh N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Toà án tiến hành thu thập chứng cứ. Tại biên bản thu thập chứng cứ do địa phương cung cấp thể hiện: Quá trình anh N và chị T sinh sống tại địa phương có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân cụ thể địa phương không nắm được.

Nay chị T có đơn xin ly hôn, đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật để giải quyết.

Về con: Anh N và chị T có 02 con chung, việc giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng đề nghị Tòa án căn cứ giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện VKS phát biểu quan điểm giải quyết vụ án. Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của đương sự, kể từ khi toà án thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định. Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh Tô Hoài N lần thứ hai nhưng anh N vẫn vắng mặt không có lý do. Chị T đề nghị Tòa án tiến hành xét xử. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự để giải quyết vắng mặt anh Nam là phù hợp quy định của pháp luật.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Tô Hoài N kết hôn với nhau năm 2009 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình anh chị chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hòa hợp, trong cuộc sống vợ chồng không có tiếng nói chung. Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn chị T tha thiết xin được ly hôn.

Tại bản tự khai cũng như tại phiên hòa giải, Anh N xác định vợ chồng cũng có mâu thuẫn, nhưng anh vẫn mong muốn vợ chồng đoàn tụ, anh N không đồng ý ly hôn.

Tòa án cũng đã tiến hành phân tích, hòa giải, để anh chị có thời gian suy nghĩ và hàn gắn, tuy nhiên chị T vẫn xác định không còn tình cảm với anh N và chị T đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn.

Xét mâu thuẫn giữa chị T và anh N đã đến mức trầm trọng. Do đó nếu buộc anh chị về đoàn tụ thì cuộc sống vợ chồng cũng khó có thể cải thiện được. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 luật HN&GĐ xử cho chị T được ly hôn anh N là phù hợp pháp luật.

[3] Về con: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Tô Vũ Huy Th, sinh ngày 16/10/2010 và cháu Tô Vũ Nguyên Gi, sinh ngày 28/4/2019. Ly hôn chị T đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi cháu Tô Vũ Nguyên Gi, giao cháu Tô Vũ Huy Th cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh N mong muốn vợ chồng đoàn tụ, nếu chị T cương quyết ly hôn, anh N đồng ý giao cháu Tô Vũ Nguyên Gi cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh trực tiếp nuôi dưỡng cháu Tô Vũ Huy Th. Xét cháu Tô Vũ Nguyên Gi chưa đủ 36 tháng tuổi nên cần giao cháu cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, do đó sự thống nhất của anh chị về việc nuôi con là phù hợp, phù hợp với nguyện vọng của cháu Th nên được chấp nhận.

Về cấp dưỡng: Do mỗi người trực tiếp nuôi một cháu nên các bên không yêu cầu cấp dưỡng là phù hợp pháp luật.

[4] Về tài sản và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án, chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm;

Vì các lẽ trên

 QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 56; Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án;

Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Thanh T được ly hôn anh Tô Hoài N.

Về con: Công nhận cháu Tô Vũ Huy Th, sinh ngày 16/10/2010 và cháu Tô Vũ Nguyên Gi, sinh ngày 28/4/2019 là con chung của chị T và anh N. Giao cháu Tô Vũ Huy Th cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Tô Vũ Nguyên Gi cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Tô Hoài N có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản và công nợ: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Án phí: Chị Nguyễn Thị Thanh T phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Thủy đã nộp theo biên lai số AA/2019/0012322 ngày 25/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh Hóa (chị T đã nộp đủ án phí).

Chị Nguyễn Thị Thanh T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Tô Hoài N có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 71/2021/HNGĐ-ST ngày 31/08/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:71/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về