Bản án 71/2021/HNGĐ-ST ngày 29/09/2021 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THÀNH, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 71/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 29 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 177/2021/TLST - HNGĐ ngày 16 tháng 8 năm 2021 về việc: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị M; Sinh năm: 1998 Địa chỉ: Thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Bùi Văn H; Sinh năm: 1992 Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 11/8/2021 và bản tự khai ngày 20/8/2021 cũng trong quá trình giải quyết vụ án, chị Lê Thị M trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Bùi Văn H kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 26/5/2016 tại Ủy ban nhân dân (Sau đây viết tắt là UBND) xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận được 04 năm thì mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân là do tính tình không hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm sống dẫn đến bất hòa kéo dài, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Thêm vào đó, do kết hôn đã lâu nhưng không có con chung nên tình cảm vợ chồng phai nhạt dần. Chị đã về nhà bố mẹ đẻ hơn 01 năm nay và vợ chồng ly thân từ đó , không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, hạnh phúc hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H.

Về con chung: Vợ chồng không có con chung, chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản: Chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 23/8/2021, anh Bùi Văn H trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Lê Thị M kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 26/5/2016 tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa Sau ngày cưới, tình cảm vợ chồng hòa thuận được 04 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do sau một thời gian dài chung sống mà vợ chồng vẫn không có con chung nên tình cảm phai nhạt dần. Chị M đã về nhà bố mẹ đẻ được hơn 01 năm, không còn quan hệ tình cảm với nhau nữa. Anh cũng như gia đình hai bên đã động viên chị M quay về để vợ chồng đoàn tụ nhưng chị M vẫn không về. Nay chị M yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, anh xét thấy không thể níu kéo được nữa nên cũng đồng ý ly hôn với chị M.

Về con chung: Vợ chồng không có con chung, anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản: Anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1]. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cho các bên đương sự, nhưng anh H không có mặt nên Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ vắng mặt anh H và đã thông báo kết quả kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ cho anh H theo khoản 3 Điều 210 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Anh H đã được triệu tập hợp lệ đến phiên hoà giải hai lần nhưng đều không đến để tham gia hoà giải nên Toà án không tiến hành hoà giải được. Đây là trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 BLTTDS.

[3]. Tại phiên tòa hôm nay, chị M và anh H vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 BLTTDS, Tòa án xét xử vắng mặt chị M và anh H.

[4]. Về hôn nhân: Chị Lê Thị M và anh Bùi Văn H kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 26/5/2016 tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa và không vi phạm các điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình, là hôn nhân hợp pháp và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo khoản 1 Điều 28 BLTTDS. Trong cuộc sống hôn nhân, vợ chồng sống hòa thuận được 04 năm thì mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, không cùng chung quan điểm sống nên thường xuyên sảy ra cãi cọ. Thêm vào đó, sau một thời gian dài chung sống mà vợ chồng không có con chung, chính vì thế mà hạnh phúc không được trọn vẹn. Thời gian kéo dài khiến cho cả hai vợ chồng đều cảm thấy mệt mỏi và chán nản. Chị M đã về nhà bố mẹ đẻ từ đầu năm 2020 đến nay và vợ chồng ly thân từ đó, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay cả chị M và anh H đều yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần căn cứ điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, xử cho chị Lê Thị M được ly hôn anh Bùi Văn H.

[5]. Về con chung: Vợ chồng không có con chung, chị M và anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

[6]. Về tài sản: Chị M và anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

[7]. Về án phí: Chị Lê Thị M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147 BLTTDS; Điều 6; Khoản 1 Điều 24; Điểm a, khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị M được ly hôn anh Bùi Văn H.

2. Về án phí: Chị Lê Thị M phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền chị M đã nộp tạm ứng tại Chi cục Thi hành án dân sự Thạch Thành, theo biên lai số: AA/2018/0003231 ngày 16/8/2021. Chị M đã nộp đủ tiền án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, vắng mặt chị Lê Thị M và anh Bùi Văn H. Chị M và anh H có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2021/HNGĐ-ST ngày 29/09/2021 về ly hôn

Số hiệu:71/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thành - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về