Bản án 71/2020/HS-ST ngày 29/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 71/2020/HS-ST NGÀY 29/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 68/2020/TLST-HS, ngày 09 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2020/HSST-QĐ ngày 15/7/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Xuân N, sinh ngày 20/11/1967 tại huyện S, tỉnh Tuyên Quang; Nơi cư trú: Thôn H, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/12, dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Xuân R. và bà Lại Thị H. (đều đã chết); vợ: Hoàng Thị T, sinh năm 1970; con: 03 con, lớn nhất sinh năm 1990, nhỏ nhất sinh năm 1998; Anh chị em ruột: 04 người, bị cáo là thứ 4.

Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/6/2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang (Có mặt).

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Hoàng Thị T, sinh năm 1970 Nơi cư trú: Thôn H, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Nguyễn Xuân N. là người nghiện ma túy, khoảng 12 giờ ngày 01/6/2020, bị cáo điều khiển xe mô tô kiểu dáng Wave, nhãn hiệu Honda, mầu sơn đỏ đen, biển số 22S1-207.40 (xe của gia đình bị cáo) từ nhà tại Thôn H, xã T. đến thị trấn S, huyện S. để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến tổ dân phố T, thị trấn S. thì gặp và mua được từ một người đàn ông không quen biết 02 gói nhỏ được gói bằng giấy bạc màu vàng, bên trong chứa chất bột vón cục màu trắng ngà với giá 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng), bị cáo cầm gói ma túy cho vào túi bên phải quần đang mặc và điều khiển xe mô tô đi về. Khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, khi bị cáo vừa đi được khoảng 30m thì bị tổ công tác công an huyện Sơn Dương phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, bị cáo đã tự giác giao nộp 02 gói ma túy vừa mua, đồng thời tổ công tác tiến hành thu giữ chiếc xe mô tô biển số 22S1-207.40 do bị cáo điều khiển.

Tại Bản Kết luận giám định số 444/GĐKTHS ngày 04/6/2020 của hòng K thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: 02 gói nhỏ thu giữ của Nguyễn Xuân N. là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,166gam (Không phẩy một sáu sáu gam).

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với bị cáo N, kết quả: (+) dương tính, có chất ma túy trong cơ thể bị cáo. Bị cáo N. khai nhận ngày 31/5/2020 tại xã Y, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên, bị cáo có sử dụng Heroine bằng hình thức hít vào cơ thể.

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 69/CT-VKSSD ngày 07 tháng 7 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Nguyễn Xuân N. về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân N. phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân N. từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong, trong có chứa chất ma túy (Heroine); trả cho chị Hoàng Thị T. 01 xe mô tô biển số 22S1-207.40. Ngoài ra, Đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử tuyên quyền kháng cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Hoàng Thị T. trình bày: Nguồn gốc chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển số 22S1-207.40 mà bị cáo Nguyễn Xuân N. điều khiển đi mua Heroine ngày 01/6/2020 là xe của gia đình chị, mục đích mua xe làm phương tiện đi lại để phục vụ công việc và sinh hoạt của gia đình. Khi bị cáo N. lấy xe đi chị không biết. Chị đề nghị HĐXX xem xét giải quyết cho chị được nhận lại xe mô tô.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Xuân N. đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung cáo trạng truy tố đối với bị cáo; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của hòng k thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang; bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình. Khi nói lời sau cùng bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Xuân N. tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh qua biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 12 giờ 30 phút ngày 01/6/2020 tại tổ dân phố T, thị trấn S, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, bị cáo Nguyễn Xuân N. có hành vi tàng trữ 0,166gam (không phẩy một sáu sáu gam) Heroine, mục đích sử dụng cho bản thân.

Bị cáo là người có năng lực hành vi dân sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ tái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật và có cơ sở, cần chấp nhận.

[2] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về mức án đối với bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương và là một trong những nguyên nhân thường gây ra các tội phạm, tệ nạn xã hội khác nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[5] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định bị cáo Nguyễn Xuân N. không có tài sản gì có giá trị, bị cáo tàng trữ để sử dụng cho bản thân, không có mục đích vụ lợi nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra thu giữ của bị cáo 0,166gam (không phẩy một sáu sáu gam) Heroine. Sau khi lấy đi giám định số còn lại cùng bao bì được niêm phong trong 1 phong bì có dấu của phòng k thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang và chữ ký của bị cáo. Đây là vật chứng của vụ án thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với chiếc xe mô tô biển số 22S1-207.40, mặc dù đăng ký xe đứng tên bị cáo Nguyễn Xuân N. nhưng đây là tài sản chung và là phương tiện đi lại phục vụ sinh hoạt của gia đình bị cáo, khi bị cáo điều khiển xe mô tô đi mua Heroine thì chị T. không biết. Tại phiên tòa bị cáo và chị T. cùng có quan điểm đề nghị được nhận lại xe mô tô và giao cho chị T. là người được trực tiếp nhận lại xe do bị cáo hiện đang bị tạm giam. Xét đề nghị của bị cáo N. và chị T. là có căn cứ nên HĐXX chấp nhận và tuyên trả lại xe mô tô cho chị Hoàng Thị T..

[7] Về các vấn đề khác:

Đối với người đàn ông bán Heroine cho bị cáo, quá trình điều tra không xác định được họ tên, địa chỉ nên không có căn cứ xử lý.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy vào ngày 31/5/2020 của bị cáo tại xã Y, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Công an huyện Sơn Dương đã có văn bản số 1356/CV-CQCSĐT ngày 15/6/2020 gửi Trưởng Công an huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên đề nghị xử lý vi phạm hành chính đối với bị cáo nên HĐXX không xem xét.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo Nguyễn Xuân N. phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

 Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1. Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Xuân N. phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân N. 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (01/6/2020).

2. Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy 01(một) phong bì niêm phong bên trong có chứa Heroine, bên ngoài có chữ ký của bị cáo và hình dấu của cơ quan giám định, là tang vật của vụ án thuộc loại nhà nước cấm lưu hành.

+ Trả lại cho chị Hoàng Thị T. 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, mầu sơn đỏ đen, biển số 22S1-207.40.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/7/2020 giữa Công an huyện Sơn Dương với Chi cục thi hành án dân sự huyện Sơn Dương).

3. Căn cứ vào: Khoản 2 Điều 136, khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

- Về án phí: Bị cáo Nguyễn Xuân N. phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2020/HS-ST ngày 29/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:71/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về