Bản án 71/2020/HSST ngày 12/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 71/2020/HSST NGÀY 12/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 75/2020/HSST ngày 10 tháng 8 năm 2020. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2020/QĐXXST – HS ngày 30 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo: Họ và tên: Trương Công T, sinh năm 1984, tại tỉnh H.

Nơi cư trú: thôn 6, xã M, huyện B, tỉnh P; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn A và bà Lê Thị C; bị cáo có vợ là chị Lê Thị Đ, có 01 người con sinh năm 2014. Tiền án: không; Tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/4/2020 cho đến nay ( Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 27/4/2020, Trương Công T dùng điện thoại di động gọi cho D (không rõ nhân thân, lý lịch) hỏi mua ma túy về sử dụng. D nói T đi đến bãi đất trống gần ngã ba M sẽ có người đưa ma túy. T đi đến khu vực bãi đất trống thì có 01 thanh niên ra hiệu và chỉ cho T thấy 01 vỏ bao thuốc lá đang nằm trên nền đất. T đưa cho người thanh niên 300.000đ, rồi T đi tới lấy bao thuốc lá mở ra có một đoạn ống hút (loại ống nhựa) bên trong chứa ma túy, T bỏ vào túi quần rồi đi về phòng trọ số 02 thuê của anh Nguyễn Văn E thuộc khu vực thôn 6 xã M. T bỏ đoạn ống hút có ma tuý vào khăn vải rồi gấp lại, dùng ly uống nước đè lên cất giấu. Đến khoảng 21 giờ 20 phút ngày 27/4/2020, Công an huyện B phối hợp với Công an xã M khám xét khẩn cấp phòng trọ số 02 nơi ở của T phát hiện, thu giữ, niêm phong vật chứng (ký hiệu M có chữ ký của T).

Tại bản giám định số 95/2020/GĐ-MT ngày 05/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Phước, kết luận: Tinh thể màu trắng có trong 01 đoạn ống hút (ký hiệu M có chữ ký của T), được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,1939 gam.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị can thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

Về vật chứng vụ án: Số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong số 95 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Phước và 01 điện thoại di động. Cơ quan điều tra đã chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bù Đăng để phục vụ việc truy tố, xét xử.

Tại bản cáo trạng số: 79/CT–VKS ngày 07/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố bị cáo Trương Công T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát khẳng định nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, vì vậy đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Về tội danh đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trương Công T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; về hình phạt, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trương Công T từ 15 đến 18 tháng tù.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy: Số ma túy còn lại sau giám định, sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động.

Về án phí buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

Bị cáo Trương Công T thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác đối với đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo Trương Công T: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Bù Đăng, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 19 giờ ngày 27/4/2020, Trương Công T dùng điện thoại di động gọi cho D không rõ nhân thân, lý lịch hỏi mua ma túy về sử dụng. D nói T đi đến bãi đất trống gần ngã ba M sẽ có người đưa ma túy. T đi đến khu vực bãi đất trống thì có 01 thanh niên ra hiệu và chỉ cho T thấy 01 vỏ bao thuốc lá đang nằm trên nền đất. T đưa cho người thanh niên 300.000đ, rồi T đi tới lấy bao thuốc lá mở ra có một đoạn ống hút bằng nhựa bên trong chứa ma túy, T bỏ vào túi quần rồi đi về phòng trọ số 02 thuê của anh Nguyễn Văn E thuộc khu vực thôn 6 xã M. T bỏ đoạn ống hút có ma tuý vào khăn vải rồi gấp lại, dùng ly uống nước đè lên cất giấu. Đến khoảng 21 giờ 20 phút ngày 27/4/2020, Công an huyện Bù Đăng phối hợp với Công an xã M khám xét lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng.

Tinh thể chất màu trắng (ký hiệu M) thu giữ kết quả giám định là Methamphetamine, có khối lượng 0,1939 gam.

Từ phân tích trên Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo Trương Công T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Như vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đánh giá tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hại cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, do bị cáo có lối sống buông thả, dẫn đến nghiện ma túy nên mặc dù nhận thức rõ được mọi hành vi liên quan đến ma túy là vi phạm pháp luật, là nguyên nhân có thể gây ra nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác nhưng vẫn cố ý phạm tội.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo có con còn nhỏ nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1,2 Điều 51 Bộ Luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Sau khi cân nhắc mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng, Hội đồng xét xử thấy cần xử bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung. [5] Về vật chứng vụ án: Căn cứ Khoản 1 Điều 47, Khoản 1 Điều 48 Bộ Luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015. Cần tiêu hủy Số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh P và sung vào công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Đối với người Đ ông bán ma túy cho bị cáo không xác định được nhân thân lai lịch, không có căn cứ xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với anh E chủ nhà nghỉ không biết về việc tàng trữ ma túy của bị cáo nên không có căn cứ xử lý.

Quan điểm xử lý vụ án của Đại diện Viện kiển sát tham gia phiên tòa về hình phạt là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Trương Công T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1,2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trương Công T 01 ( một) năm 03 ba tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/4/2020.

[2] Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47, khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tuyên tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đựng trong phong bì niêm phong của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước. Sung vào công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động; theo biên bản giao nhận vật chứng số 0009799 ngày 16/7/2020 giữa Chi cục Thi hành án và Công an huyện Bù Đăng.

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trương Công T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Quyền kháng cáo bản án: Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2020/HSST ngày 12/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:71/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về