Bản án 71/2020/DS-ST ngày 17/09/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀI ÂN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 71/2020/DS-ST NGÀY 17/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 17 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 35/2020/TLST-DS ngày 15 tháng 5 năm 2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 120/2020/QĐXXST-DS ngày 07 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Võ Trung H, sinh năm 1965;

Đa chỉ: Thôn T, xã T, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.

Bị đơn: Ông Hoàng Công C, sinh năm 1984;

Đa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.

Người có nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1984;

Đa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.

Nguyên đơn, bị đơn có mặt; người có nghĩa vụ liên quan có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 07/5/2020, bản tự khai, cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn ông Võ Trung H trình bày: Trong năm 2018, ông công tác tại trường THCS M, ông Hoàng Công C là giáo viên trường PTTH G cũng là học trò cũ của ông. Do quen thân nên ngày 26/3/2018 ông C nhờ ông vay của bà Ngô Thị X ở thôn Q, xã M 50.000.000,đ cho ông C mượn để ông C mua rừng đấu giá ở huyện An Lão. Đến trưa cùng ngày, bà Nguyễn Thị Thanh T là vợ ông C có nói chuyện qua điện thoại với ông H và nhờ ông giúp C vay tiền, nên chiều hôm đó ông và ông C đến nhà bà X để vay tiền, ông có vay của bà X 50.000.000,đ để đưa cho C mượn. Ông C có nhận của bà X 50.000.000,đ và có viết giấy mượn tiền cho ông hẹn đến ngày 6/4/2018 sẽ trả lại cho ông. Đến ngày trả nợ, ông hỏi thì ông C hứa hẹn không trả, thời gian sau nhiều lần ông hỏi nợ thì ông C chỉ hứa hẹn mà không trả số tiền như đã cam kết. Nay ông yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông C phải trả số tiền 50.000.000,đ và yêu cầu ông C trả lãi kể từ ngày 26/4/2018 cho đến ngày xét xử vì trong thời gian mượn của bà X ông phải trả tiền lãi cho bà X theo thỏa thuận. Tại phiên tòa hôm nay, ông chỉ yêu cầu vợ chồng ông Hoàng Công C trả tiền gốc 50.000.000,đ còn về tiền lãi ông không yêu cầu.

Đi với bị đơn ông Hoàng Công C trình bày: Vào tháng 3/2018, ông có mượn của ông Võ Trung H số tiền 50.000.000,đ hai bên thỏa thuận lãi suất 2.500.000,đ/tháng. Sau khi mượn, ông có trả được cho ông H 6 tháng tiền lãi, sau đó do việc làm ăn thua lỗ nên không trả lãi nữa. Nay ông thừa nhận còn nợ ông H 50.000.000,đ và xin trả dần mỗi tháng 10.000.000,đ cho đến hết nợ, còn về tiền lãi ông xin không trả.

Đi với người có nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thanh T trình bày: Việc chồng bà ông Hoàng Công C và ông Võ Trung H cho vay mượn tiền như thế nào bà không biết, nay ông H yêu cầu bà cùng trả số 50.000.000,đ thì bà không đồng ý. Tại phiên tòa hôm nay bà T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Đại diện VKSND huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định tham gia phiên Tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Nhưng về thủ tục thụ lý vụ án đã vi phạm về thời gian xử lý đơn, nên đề nghị Thẩm phán rút kinh nghiệm.

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ và tại phiên tòa, bị đơn xin trả dần mỗi tháng 10.000.000,đ cho nguyên đơn và được nguyên đơn đồng ý. Nên đề nghị HĐXX xem xét công nhận sự thỏa thuận của các bên đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn ông Võ Trung H khởi kiện yêu cầu ông Hoàng Công C trả số tiền đã vay, đây là tranh chấp hợp đồng vay tài sản thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn Hoàng Công C cư trú tại thôn T, xã Đ, huyện Hoài Ân, căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân.

Người có nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thanh T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, căn cứ vào khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Nguyễn Thị Thanh T.

[2] Xét yêu cầu và chứng cứ của các bên đương sự:

[2.1] Đối với yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu bị đơn và người có nghĩa vụ liên quan trả số tiền 50.000.000,đ thì thấy rằng: Do có quan hệ cùng là giáo viên và cũng là học trò cũ, nên vào ngày 26/3/2018 ông Hoàng Công C có nhờ ông Võ Trung H vay giúp số tiền 50.000.000,đ để đầu tư vào việc mua bán rừng đấu giá ở huyện An Lão. Sau khi nhận tiền, ông C có viết giấy mượn tiền cho ông H, với nội dung có vay của ông Võ Trung H số tiền 50.000.000,đ, hẹn đến ngày 06/4/2018 sẽ trả lại cho ông H, “nếu sai hẹn thì sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật”. Kể từ ngày hẹn trả nợ đến nay ông C chưa trả tiền cho ông H.

Xét thấy, ông C thừa nhận vào ngày 26/3/2018 có vay của ông H số tiền 50.000.000,đ hẹn đến ngày 08/4/2018 sẽ trả đủ, nhưng đến nay vẫn chưa trả tiền cho ông H là vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Nay ông H yêu cầu vợ chồng ông C phải trả số tiền nợ 50.000.000,đ là có căn cứ chấp nhận.

[2.2] Đối với yêu cầu của bị đơn, tại phiên tòa hôm nay xin trả dần cho nguyên đơn mỗi tháng 10.000.000,đ đến khi hết nợ thì thấy rằng: Trong giấy vay tiền ông C hẹn sau 10 ngày sẽ trả cho ông H nhưng sau đó đã không thực hiện theo thõa thuận, mặc dù ông H đã nhiều lần hỏi nợ; tại phiên hòa giải ngày 16/6/2020, ông C cũng cam kết mỗi tháng sẽ trả cho ông H 5.000.000,đ nhưng cho đến nay vẫn chưa trả tiền. Nên các cam kết trả nợ của ông C là không trung thực, không có thiện chí trả nợ, do đó không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu của bị đơn.

[2.3] Đối với ý kiến của người có nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Thanh T cho rằng, việc chồng bà vay tiền của ông H bà không biết nên không đồng ý cùng chồng bà trả nợ cho ông H. Nhưng căn cứ lời khai của ông C thể hiện trước khi ông C vay tiền thì bà T có điện thoại cho ông H giúp chồng bà vay tiền, sau khi nhận tiền ông C có nói cho bà T biết việc vay tiền của ông H với số tiền 50.000.000,đ; hơn nữa ông C vay tiền là để đầu tư vào việc làm ăn, nhằm phát triển kinh tế chung của gia đình. Do đó, cần buộc bà T phải có trách nhiệm cùng ông C trả số tiền vay cho ông H là phù hợp theo quy định tại Điều 37 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[2.4] Về yêu cầu tính lãi của nguyên đơn: Trong đơn yêu cầu và quá trình làm việc tại Tòa án, nguyên đơn có yêu cầu tính lãi. Nhưng, tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn không yêu cầu tính lãi nên HĐXX không xem xét.

Từ những phân tích trên, HĐXX chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn Võ Trung H buộc bị đơn Hoàng Công C và người có nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Thanh T phải trả số tiền 50.000.000,đ cho nguyên đơn là đúng quy định pháp luật.

[3] Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, đề nghị HĐXX công nhận sự thỏa thuận của các bên đương sự. Nhưng, tại phiên tòa hôm nay người có nghĩa vụ liên quan có đơn vắng mặt, trong đơn vẫn giữ nguyên ý kiến tại các buổi làm việc tại Tòa án nên HĐXX không có căn cứ để công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

[4] Về án phí: Theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án thì ông Hoàng Công C và bà Nguyễn Thị Thanh T phải chịu án phí trên số tiền phải trả cho nguyên đơn.

Hoàn trả cho nguyên đơn tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoài Ân.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147; Điều 227; 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 463; 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 37 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Võ Trung H;

Buộc bị đơn ông Hoàng Công C và người có nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thanh T phải trả số tiền 50.000.000,đồng cho nguyên đơn ông Võ Trung H.

Với khoản tiền đã tuyên trên, kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án. Nếu người phải thi hành án không thi hành hoặc thi hành chậm thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải trả tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

2. Không chấp nhận yêu cầu của bị đơn về việc xin trả dần mỗi tháng 10.000.000,đ cho đến hết nợ;

3. Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm ông Hoàng Công C, bà Nguyễn Thị Thanh T phải chịu 2.500.000,đồng.

Hoàn trả cho ông Võ Trung H tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.250.000,đồng theo biên lai thu số 0006097 ngày 15/5/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoài Ân.

4. Quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa hôm nay được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, Người có nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật để yêu cầu xét xử theo trình tự phúc thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được quy định theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6 điều 7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2020/DS-ST ngày 17/09/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:71/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoài Ân - Bình Định
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 17/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về