Bản án 71/2019/HS-ST ngày 26/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO - TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 71/2019/HS-ST NGÀY 26/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 83/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đình C; tên gọi khác: Không. Sinh năm: 1967, tại: Xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên. Nơi cư trú: Khối H, thị trấn T, huyện T, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình C, tên gọi khác Nguyễn Đình A (chết năm 1969) và con bà Bùi Thị H, sinh năm 1943; bị cáo có vợ là Vũ Thị N và có 02 người con, con lớn nhất sinh năm 1998, con nhỏ nhất sinh năm 2004; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị xét xử và xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/6/2019, tạm giam ngày 01/7/2019 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ, ngày 28/6/2019 bị cáo Nguyễn Đình C một mình điều khiển xe máy biển kiểm soát 27Z1- 000.00 đi từ nhà ở khối H, thị trấn T, huyện T, tỉnh Điện Biên lên bản Nát, xã Q, huyện T, để tìm mua Heroine. Đến bản N, xã Q, bị cáo gặp một người đàn ông dân tộc Thái, khoảng 30 tuổi (bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu), nhìn giống người nghiện, đang đứng ở ven đường. Bị cáo dừng xe máy, hỏi người đàn ông đó: “Anh có hàng không”, ý bị cáo hỏi là có Heroine không, người đàn ông đó trả lời: “Có”. Bị cáo nói: “bán cho tôi hai trăm nghìn”, người đàn ông đó đồng ý lấy từ trong túi quần đang mặc ra đưa cho bị cáo 01 gói nilon màu xanh, bên trong chưa chất bột màu trắng, bị cáo biết đó là Heroine. Bị cáo nhận gói Heroine cất giấu vào trong túi quần bên trái bị cáo đang mặc, đồng thời đưa cho người đàn ông đó 200.000đ (hai trăm nghìn đồng). Việc trao đổi, mua bán Heroine, diễn ra ngoài đường chỉ có bị cáo và người đàn ông đó biết với nhau, ngoài ra không có ai biết, tham gia cùng. Khi mua Heroine bị cáo không mở ra xem, cũng không cân xác định khối lượng. Mua được Heroine bị cáo Nguyễn Đình C điều khiển xe máy về nhà, khi đi đến địa phận khối T, thị trấn T thì bị Tổ công tác, Công an huyện Tuần Giáo, phát hiện bắt quả tang, thu giữ của bị cáo 01 gói Heroine có khối lượng 0,18 gam; tạm giữ của bị cáo 01 xe máy và đăng ký mô tô, xe máy, tên chủ xe Nguyễn Đình C.

Tại bản Kết luận giám định số: 755/GĐ-PC09 ngày 12/7/2019 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Điện Biên kết luận: “Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của các bị cáo Nguyễn Đình C gửi giám định là ma tuý: Loại Heroine. Khối lượng vật chứng thu giữ của bị cáo Nguyễn Đình C là 0,18 gam”.

Tại Cơ quan Điều tra và phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Đình C khai nhận: Ngày 28/6/2019 bị cáo sử dụng xe máy biển kiểm soát 27Z1-000.00 của bị cáo đi từ nhà tại Khối H lên bản N, xã Q mua 01 gói Heroine với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) mục đích để sử dụng. Bị cáo đang trên đường đi mua Heroine về, chưa kịp sử dụng thì bị Công an bắt quả tang thu giữ gói Heroine có khối lượng 0,18 gam; tạm giữ của bị cáo 01 xe máy và đăng ký mô tô, xe máy, tên chủ xe Nguyễn Đình C.

Tại bản Cáo trạng số: 82/CT-VKS-TG ngày 09 tháng 8 năm 2019, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã truy tố bị cáo Nguyễn Đình C về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điểm s, x Khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Không phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa 0,1 gam Heroine là vật chứng còn lại của vụ án đã thu giữ của bị cáo, 01 mảnh nilon màu xanh, 01 vỏ phong bì dùng để niêm phong vật chứng; đối với 01 xe máy nhãn hiệu YMT, màu đỏ - đen, biển kiểm soát 27Z1-000.00 đã qua sử dụng cùng đăng ký mô tô, xe máy số 000000, mang tên Nguyễn Đình C Công an tạm giữ, là phương tiện phạm tội đề nghị tịch thu nộp ngân sách Nhà nước. Áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng và không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt bị cáo không có ý kiến gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi của bị cáo: Ngày 28/6/2019 bị cáo Nguyễn Đình C sử dụng xe máy biển kiểm soát 27Z1-009.95 của bị cáo đi mua 01 gói Heroine với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) mục đích để sử dụng. Bị cáo đang trên đường đi mua Heroine về, chưa kịp sử dụng thì bị Công an bắt quả tang thu giữ gói Heroine có khối lượng 0,18 gam. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử kết luận: Bị cáo Nguyễn Đình C phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[2] Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội thì hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Hành vi của bị cáo trực tiếp, tiếp tay cho những người chuyên mua bán trái phép các chất ma túy tồn tại và phát triển; là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm .... làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn huyện T nói riêng và tỉnh Điện Biên nói chung. Tội phạm mà bị cáo thực hiện là tội phạm nghiêm trọng. Vì vậy hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật, mới có tác dụng phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân: Tại giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo và có bố đẻ được Nhà nước tặng Huân chương chiến sĩ giải phóng hạng Ba và là liệt sĩ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s, x Khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo được gia đình nuôi cho học hết lớp 10/12 ở nhà lao động sản xuất, năm 1988 nghiện chất ma túy. Năm 1997 kết hôn với chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1975 và có 01 người con chung, đến năm 1998 ly hôn. Năm 2004 kết hôn với chị Vũ Thị N, sinh năm 1969 và có 01 người con chung. Cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo thông qua hình phạt để răn đe, giáo dục bị cáo thành người lương thiện, có ý thức tuân thủ pháp luật, đồng thời giúp bị cáo cai nghiện chất ma túy.

[4] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, bản thân nghiện chất ma túy, nên không có khả năng thi hành. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Kiểm sát viên đề nghị xử phạt bị cáo từ 15 tháng đến 18 tháng tù và không phạt bổ sung đối với bị cáo. Xét mức hình phạt Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo, chưa thật phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội cũng như các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[6] Đối với người đàn ông dân tộc Thái đã bán Heroine cho bị cáo, do bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ. Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện Tuần Giáo không có đủ căn cứ để điều tra, xác minh làm rõ, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Vật chứng vụ án: Đối với 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa 0,1 gam Heroine là vật chứng còn lại của vụ án đã thu giữ của bị cáo, 01 mảnh nilon màu xanh, 01 vỏ phong bì dùng để niêm phong vật chứng cần tịch thu tiêu hủy; đối với 01 xe máy nhãn hiệu YMT, màu đỏ - đen, biển kiểm soát 27Z1- 000.00 đã qua sử dụng cùng 01 đăng ký mô tô, xe máy số 000000 mang tên Nguyễn Đình C Công an tạm giữ, là phương tiện phạm tội cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[8] Về hành vi và các Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan đã thực hiện đều hợp pháp và được chấp nhận.

[9] Án phí: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s, x Khoản 1, 2 Điều 51; Điểm a, c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điểm a Khoản 2 Điều 106; Khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình C 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/6/2019.

- Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa 0,1 gam Heroine, 01 mảnh nilon màu xanh, 01 vỏ phong bì dùng để niêm phong vật chứng; tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 xe máy nhãn hiệu YMT, màu đỏ - đen, biển kiểm soát 27Z1-009.95 đã qua sử dụng và 01 đăng ký mô tô, xe máy số 002092 mang tên Nguyễn Đình C theo Phiếu nhập kho số: PNKVC 97 ngày 20/8/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.

- Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 26/8/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2019/HS-ST ngày 26/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:71/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về