Bản án 71/2019/HS-ST ngày 23/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 71/2019/HS-ST NGÀY 23/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 23 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 66/2019/TLST-HS ngày 08 tháng 4 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:  70/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Trung N, sinh năm 1969, tại huyện G, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Tiểu khu 9, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hoàng C (đã chết) và bà Nguyễn Thị S; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 27/02/2004, Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La xử phạt 3.000.000đ về tội Đánh bạc (đã được xóa án tích); Ngày 01/11/2007, Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La xử phạt 30 tháng tù và phạt bổ sung 3.000.000đ về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích); Ngày 01/02/2013, Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La xử phạt 36 tháng tù, về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích); Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/01/2019 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 17 giờ 00 phút ngày 11/01/2019, tổ công tác Công an huyện M làm nhiệm vụ tại khu vực tiểu khu 12, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sơn La, qua kiểm tra hành chính về ma túy với Nguyễn Trung N đã phát hiện Nguyễn Trung N đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ 01 gói nilon màu hồng, bên trong đựng chất bột màu trắng, Nguyễn Trung N khai là Heroine cất giữ nhằm mục đích để sử dụng.

Tổ công tác đã lập biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng, dẫn giải Nguyễn Trung N về Công an huyện M để điều tra làm rõ, tạm giữ của Nguyễn Trung N 01 xe máy nhãn hiệu Honda wave Alpha sơn màu đen - bạc, biển kiểm soát 26G1-187.61, số khung: 083302, số máy 083329; 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIETTEL, vỏ màu xanh dương.

Ngày 11/01/2019 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M phối hợp với VKSND huyện M và phòng Kỹ Thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng số ma túy của Nguyễn Trung N, kết quả: Gói chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Trung N có khối lượng 0,25 gam, lấy 0,1 gam làm mẫu giám định ký hiệu “N”. Cơ quan Công an huyện M ra quyết định trưng cầu giám định chất ma túy và loại ma túy.

Tại kết luận giám định số: 242 ngày 14/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu N là ma túy, loại chất Heroine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,1 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 0,25 gam; loại Heroine.

Quá trình điều tra Nguyễn Trung N khai nhận: Hồi 16 giờ ngày 11/01/2019, Nguyễn Trung N một mình điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave Alpha sơn màu đen - bạc, biển kiểm soát 26G1-187.61 từ nhà ở đi đến khu vực xã M, huyện M mục đích tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Khi N đi đến khu vực bản A, xã M, huyện M thì N gặp một người đàn ông không quen biết, N hỏi và mua được của người đàn ông đó 01 gói nilon màu hồng bên trong đựng chất bột màu trắng là Heroine với giá 400.000đ. Sau đó N cất giấu gói Heroine vào trong miệng  rồi điều khiển xe máy đi về. Khi N đi đến khu vực ngã ba thuộc tiểu khu 12, thị trấn M, huyện M thì bị tổ công tác Công an huyện M phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Bản cáo trạng số: 66/CT-VKSMC ngày 08 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo Nguyễn Trung N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M giữ nguyên quan điểm truy tố Nguyễn Trung N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố Nguyễn Trung N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Nguyễn Trung N từ 24 tháng đến 30 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,15 gam Heroine cùng với vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng test thử ma túy của Nguyễn Trung N.

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave Alpha sơn màu đen - bạc, biển kiểm soát 26G1-187.61, số khung: 083302, số máy 083329.

Tạm giữ của bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIETTEL, vỏ màu xanh dương, mặt sau bị vỡ, điện thoại cũ đã qua sử dụng để đảm bảo cho việc thi hành án về phần án phí.

3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà bị cáo Nguyễn Trung N thừa nhận: Hồi 17 giờ 00 phút ngày 11/01/2019, Nguyễn Trung N đã thực hiện hành vi cất giữ trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 0,25 gam, với mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang cùng vật chứng.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ trong vụ án; Kết luận giám định.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo Nguyễn Trung N đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Do vậy cần xem xét cân nhắc xử phạt bị cáo mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo. Việc cách ly bị cáo một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có thể đảm bảo được điều kiện và thời gian để bị cáo cải tạo, giáo dục trở thành người tốt có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời nhằm răn đe phòng ngừa giáo dục chung.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, năm 2004 Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La xử phạt 3.000.000đ về tội Đánh bạc. Năm 2007 Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La xử phạt 30 tháng tù và phạt bổ sung 3.000.000đ, về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Năm 2013 Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La xử phạt 36 tháng tù, về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, đã được xóa án tích. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[3] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và xét hỏi tại phiên tòa thấy rằng bị cáo không có tài sản nên không phạt bổ sung - phạt tiền đối với bị cáo theo quy định của khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[4] Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,15 gam Heroine cùng với vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng test thử ma túy của Nguyễn Trung N, là vật Nhà nước cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave Alpha sơn màu đen, bạc, biển kiểm soát 26G1-187.61, số khung: 083302, số máy 083329, xe cũ đã qua sử dụng. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay xác định là tài sản của bị cáo, là phương tiện dùng vào việc thực hiện tội phạm. Do đó cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIETTEL, vỏ màu xanh dương, mặt sau bị vỡ, điện thoại cũ đã qua sử dụng. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo. Không liên quan đến việc phạm tội. Do đó cần tuyên tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án về phần án phí.

[5] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo như bị cáo khai. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này do đó không có căn cứ để điều tra xử lý.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Pháp luật.

[7] Thời hạn tạm giam của bị cáo còn dưới 45 ngày nên cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trung N phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung N 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 11/01/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Nguyễn Trung N, bắt ngày 11/01/2019: Bên trong đựng 0,15 gam Heroine cùng với vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy của Nguyễn Trung N, ngày 11/01/2019. KQ: Dương tính. Bên trong đựng test thử ma túy của Nguyễn Trung N.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave Alpha, sơn màu đen - bạc, biển kiểm soát 26G1-187.61, số khung: 083302, số máy 083329, không kiểm tra máy móc bên trong (xe cũ đã qua sử dụng).

Tạm giữ của bị cáo Nguyễn Trung N: 01 điện thoại di động VIETTEL, vỏ màu xanh dương, mặt sau bị vỡ, điện thoại cũ đã qua sử dụng. Để đảm bảo cho việc thi hành án về phần án phí.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều  21,  điểm  a  khoản  1  Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Trung N phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 23/4/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2019/HS-ST ngày 23/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:71/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về