Bản án 71/2019/HS-ST ngày 21/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 71/2019/HS-ST NGÀY 21/06/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 06 năm 2019 tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã ML, huyện KS, tỉnh Nghệ An, Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 63/2019/TLST-HS ngày 28 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2019/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 06 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vi Văn N; tên gọi khác: Không; Sinh ngày 14/6/1977 tại xã M, huyện TD, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: bản Y, xã ML, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: làm rẫy; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vi Khăm Đ và bà Kha Thị Nh; có vợ là Vi Thị B và 02 con; tiền án: không; tiền sự: có 01 tiền sự (ngày 21/11/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc); nhân thân: Năm 2013 bị Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt từ ngày 06/3/2019 đến nay, hiện đang tạm giam. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn H - Trợ giúp viên pháp lý, công tác tại Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Nghệ An. Có mặt;

- Người làm chứng:

1, Anh Lô Trung T; sinh năm 1992; Trú tại: bản XT, xã ML, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Vắng mặt;

2, Anh Kha Văn H, sinh năm 1994; Trú tại: Bản Y, xã ML, huyện KS, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 08 giờ ngày 05/3/2019 Vi Văn N đi bộ từ nhà vào khu vực rẫy thuộc bản Nhọt Lật, xã ML, huyện KS, tỉnh Nghệ An để mua ma tuý. Khi đến nơi, Vi Văn N gặp một người đàn ông (người Lào) không quen biết rồi hỏi “Anh có ma tuý không?”, người đàn ông đó trả lời “Có”, Vi Văn N lấy số tiền 750.000đ (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng) đưa cho người đàn ông đó, người đàn ông cầm tiền rồi đưa lại cho Vi Văn N 01 (một) cục heroine và 32 (Ba mươi hai) viên ma tuý tổng hợp, mua ma tuý xong, Vi Văn N cất dấu trong người rồi đi bộ về nhà. Khi về đến nhà, Vi Văn N lấy một ít heroine và ma tuý tổng hợp ra sử dụng, số heroine còn lại Vi Văn N chia thành 11 (mười một) gói nhỏ rồi cất dấu với số ma tuý tổng hợp còn lại. Trong hai ngày 05/3 và ngày 06/3/2019 Vi Văn N đã sử dụng hết 09 (chín) viên ma tuý tổng hợp.

Khoảng 09 giờ ngày 06/3/2019, khi Vi Văn N đang ở nhà thì có Kha Văn H (trú cùng bản) đến hỏi mua ma tuý, Vi Văn N đã bán cho Kha Văn H 01 (một) gói heroine với số tiền 50.000đ (Năm mươi nghìn đồng), mua ma túy xong Kha Văn H đi về. Đến khoảng 11 giờ 15 phút cùng ngày Vi Văn N bị Công an huyện Kỳ Sơn phát hiện, bắt quả tang, thu giữ trong túi quần bên phải mà Vi Văn N đang mặc 10 (mười) gói nhỏ chất màu trắng (nghi là heroine) được gói bằng giấy báo có chữ và 23 (hai mươi ba) viên nén màu hồng (nghi là ma túy tổng hợp) được gói bằng bao potylen màu trắng.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại vào hồi 09 giờ 30 phút ngày 07/03/2019 đã xác định: Chất màu trắng (nghi là heroine) có khối lượng 0,3g (Không phẩy ba gam). Số viên nén màu hồng (nghi là ma túy tổng hợp) có khối lượng là 2,3g (Hai phẩy ba gam). Hội đồng niêm phong đã tiến hành trích mẫu để gửi đi giám định.

Kết luận giám định số 430/KL-PC09(MT) ngày 11/03/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An đã kết luận: Mẫu chất màu trắng thu giữ của Vi Văn N gửi tới giám định là chất ma túy (heroine); Mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Vi Văn N gửi tới giám định là chất ma tuý (methamphetamine).

Cáo trạng số 71/CT-VKS-HS ngày 26/05/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An đã truy tố Vi Văn N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Vi Văn N đã khai nhận hành vi của mình với các tình tiết như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, bị cáo thừa nhận mục đích mua ma túy là để sử dụng và bán kiếm lời, cụ thể đã bán cho Kha Văn H một gói heroine thu lợi số tiền 50.000đ (Năm mươi nghìn đồng), số tiền này bị cáo đã tiêu xài hết.

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Vi Văn N mức án từ 03 (Ba) năm đến 03 năm 06 tháng (Ba năm sáu tháng) tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, truy thu số tiền do phạm tội mà có; đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định.

Người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ dân trí thấp, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, đề nghị miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật, không có gì oan sai, chỉ mong Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ cho một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo không có ý kiến gì khiếu nại về các hành vi, quyết định đó. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay cơ bản phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và các chứng cứ tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với nnội dung bản cáo trạng đã truy tố nên đủ cơ sở để kết luận: Ngày 06/3/2019 bị cáo Vi Văn N bị bắt quả tang khi đang có hành vi tàng trữ 0,3 gam heroin và 2,3g (Hai phẩy ba gam) ma túy Methamphetamine nhằm mục đích để bán kiếm lời. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận đã bán cho Kha Văn H (trú tại bản Y, xã ML, huyện KS, tỉnh Nghệ An) 01 gói heroine thu lợi số tiền 50.000 đồng (Năm mươi nghìn đồng).

[2.1] Căn cứ hướng dẫn tại Điều 4 Chương 2 Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ thì tổng khối lượng của hai chất ma tuý (heroine, methamphetamine) thu giữ của Vi Văn N là: 0,3g + 2,3g = 2,6g. Đối chiếu tổng khối lượng của hai chất ma tuý quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự thì trong trường hợp này tổng khối lượng của hai chất ma tuý ít hơn khối lượng chất ma túy được quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Vì vậy hành vi của bị cáo Vi Văn N đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[2.2] Khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự quy định:“1. Người nào mua bán trái phép chất ma tuý thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

[2.3] Hành vi phạm tội của bị cáo Vi Văn N là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước đối với các loại chất gây nghiện, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Khi phạm tội bị cáo cũng nhận thức được ma túy là chất Nhà nước cấm, vì ma túy gây tác hại xấu đến đời sống kinh tế - xã hội cũng như sức khỏe của con người, là mầm mống phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác nhưng bị cáo vẫn bất chấp pháp luật tàng trữ để mua bán trái phép, hành vi đó làm ảnh hưởng đến đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, bản thân bị cáo đã từng bị kết án về tội phạm ma túy, tuy đã được xóa án tích nhưng chứng tỏ có nhân thân xấu, ý thức chấp hành pháp luật kém, không lấy lần phạm tội đó làm bài học cho bản thân để tu dưỡng, rèn luyện làm người có ích cho xã hội mà bị cáo vẫn tiếp tục sử dụng chất ma túy và bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở bắt buộc, nhưng trong thời gian chờ cơ quan chức năng bắt đi chấp hành biện pháp xử lý hành chính thì lại tiếp tục có hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Điều đó chứng tỏ bị cáo có ý thức coi thường pháp luật nên cần phải xử lý bị cáo mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi mà bị cáo đã gây ra, việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để cải tạo, giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung là cần thiết.

[2.4] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[3] Hình phạt bổ sung: Thấy rằng bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, thu nhập chủ yếu từ nương rẫy nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo.

[4] Đối với Kha Văn H, trú tại bản Y, xã ML, huyện KS, tỉnh Nghệ An là người đã mua ma túy với bị cáo, quá trình điều tra đã xác định Kha Văn H là đối tượng nghiện ma túy đã mua và sử dụng hết số ma túy đã mua với bị cáo vì vậy Cơ quan điều tra đã giao cho gia đình và chính quyền địa phương quản lý giáo dục. Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Vi Văn N quá trình điều tra chưa xác định được danh tính và địa chỉ cụ thể nên chưa có căn cứ để xử lý, Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào có kết quả sẽ được xử lý.

[5] Vật chứng vụ án: Số ma túy thu giữ của Vi Văn N, sau khi đã trích mẫu gửi đi giám định thì số ma túy heroine còn lại có khối lượng 0,2g (Không phẩy hai gam), số ma túy methamphetamine còn lại có khối lượng 2,1g (Hai phẩy một gam), đây là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên phải tịch thu để tiêu hủy.

[5.1] Đối với số tiền 50.000 đồng (Năm mươi nghìn đồng) mà bị cáo khai nhận thu được từ việc bán ma túy cho Kha Văn H, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của đối tượng Kha Văn H, do đó được xác định là tiền do phạm tội mà có. Hiện số tiền này bị cáo đã tiêu xài cá nhân hết nên phải truy tịch thu đối với bị cáo để sung vào ngân sách Nhà nước.

[6] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Về tội danh và mức hình phạt: Căn cứ vào khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Vi Văn N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Vi Văn N 03 (Ba) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 06/03/2019 (ngày bị cáo bị bắt).

Về xử lý vật chứng:

- Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu để tiêu hủy phong bì thư bưu điện được dán kín, ở mép dán có đầy đủ chữ ký của Hội đồng tham gia niêm phong và Vi Văn N, trong đó phong bì thư thu giữ của bị cáo bên trong chứa 0,2g (Không phẩy hai gam) heroine và 2,1g (Hai phấy một gam) methamphetamine. Vật chứng đang do Chi cục thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng hồi 04 giờ 00 phút ngày 28/05/2019.

- Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự: Truy thu của bị cáo Vi Văn N số tiền 50.000 đồng (Năm mươi nghìn đồng) là tiền thu lợi bất chính từ việc phạm tội mà có để sung vào ngân sách nhà nước.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Vi Văn N phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tuyên bố bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 21/06/2019)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2019/HS-ST ngày 21/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:71/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về