Bản án 71/2019/HS-ST ngày 21/05/2019 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 71/2019/HS-ST NGÀY 21/05/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 21/5/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 55/2019/TLST-HS ngày 25/32019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2019/QĐXXST-HS ngày 08/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện Điện Biên đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Lường Văn L; Tên gọi khác: Không. Sinh năm: 1974, tại Điện Biên. Nơi đăng ký NKTT và chỗ ở: Bản T, xã Pá Kh, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên. Nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lường Văn S - SN 1948 (Đã chết); Bố dượng: Vì Văn T - SN 1942 và con bà: Lò Thị U (Lường Thị U) - SN 1950; Vợ, con: Lò Thị M (Lường Thị M) - SN 1974; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 23/8/2005 bị Tòa án nhân dân huyện Đ B xử phạt 03 tháng 19 ngày tù, hiện đã được xóa án tích; Bị áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 13/LCCT - VKSND - HĐB ngày 05/3/2019, Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 16/LCCT - VKSND - HĐB ngày 21/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên; Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 22/2019/HSST - LCĐKNCT ngày 03/4/2019 và Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 23/2019/HSST - LCĐKNCT ngày 08/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, có mặt tại phiên tòa.

2. Người bị hại: Trần Anh L - SN 1984

Trú tại: Đội 15, xã Thanh X, huyện Đ B, tỉnh Đ B, có mặt.

3. Nguyên đơn dân sự: Hợp tác xã Thủy sản M Ph

Đại diện theo pháp luật: Ông Trần Văn C, sinh năm 1973

Địa chỉ: Tổ 9, phường Him L, thành Phố Đ Ph, tỉnh Đ B, có mặt.

4. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Anh Lường Văn P, sinh năm 1984

Trú tại: Bản Đông M, xã P Kh, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên, vắng mặt có lý do.

- Anh Lò Văn O, sinh năm 1993.

Trú tại: Bản T, xã Pá Kh, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên, có mặt.

5. Người làm chứng:

- Anh Cầm Văn Th, sinh năm 1974.

Trú tại: T, xã Pá Kh, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

- Anh Lò Văn Th, sinh năm 1988

Trú tại: Bản T, xã P Kh, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên. Đều có mặt.

6. Người bào chữa cho bị cáo Lường Văn L: Bà Lê Thị X - Luật sư thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên, có mặt bào chữa cho bị cáo.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 18/12/2018, Lường Văn L mang theo 01 thuyền gỗ, 02 mái chèo bằng gỗ và 01 lưới đánh cá loại then ba đến khu vực hồ Pá Kh thuộc khu nuôi trồng thủy sản của hợp tác xã thủy sản Mường Ph để đánh cá trái phép. Khoảng 09 giờ trong khi Lường Văn L đang đánh cá trái phép cùng Lường Văn P, Lò Văn Ọ, Lò Văn Th, Cầm Văn Th cùng một số người khác thì có anh Trần Anh L, sinh năm 1984 là nhân viên bảo vệ của hợp tác xã Thủy sản điều khiển xuồng máy đến nhắc nhở không cho đánh cá nữa. L đã đi xuồng máy đi vòng quanh khu vực những người đanh đánh cá làm mặt hồ tạo sóng làm thuyền gỗ của một số người bị lật. L đã cho xuồng máy dừng lại, sau đó xuồng bị chết máy. L đã dùng ná cao su bắn 02 viên bi ve về phía Lường Văn P, trúng vào đầu P nhưng không gây thương tích, sau đó 2 bên dùng đá ném về phía nhau, trong đó có viên đá của P ném trúng vào mái tôn xuồng máy làm rách mái tôn. Sau đó P chèo thuyền của mình áp sát vào xuống máy rồi bám tay vào thành xuồng trèo lên xuồng thì bị L dùng một đoạn sắt tuýt nước dài khoảng 01 m chọc vào má bên phải và cẳng tay của P làm xước da và chảy máu, trong lúc đánh nhau thanh sắt đã rơi xuống hồ vì vậy L đã lấy chiếc dao nhọn có sẵn trên xuồng chém một nhát về phía P nhưng không trúng, nhát thứ 2 thì P đã dùng tay trái bắt được cổ tay phải đang cầm dao của L và dùng tay phải túm lấy cổ áo của L đẩy L nằm ngửa, đầu quay ra ngoài phía đuôi xuồng bên trái và dùng 2 đầu gối đè lên bụng luân, lưng của L bị ép vào vào thành xuồng tạo nên 03 vết xước da, bầm tím ở mạng sườn bên trái. Lò Văn O thấy thế liền trèo lên xuồng dùng chân phải đạp một phát vào vùng bụng của L. Lúc này Lường Văn L đang ở gần sát xuồng của L, thấy P và Ọi đánh L nên đã chèo thuyền đến áp sát vào xuồng máy, tay phải cầm 01 mái chèo bằng gỗ có kích thước dài 46 cm, phần mái chèo dài 36 cm, phần cán cầm của mái chèo hình trụ tròn dài 10 cm, chu vi 08 cm dùng bản rộng của mái chèo vụt về phía L: Phát thứ nhất hướng từ phải qua trái từ trên xuống dưới vào vùng trán phía bên phải đầu của L gây vết sưng tấy đỏ diện (2,2x4) cm; phát thứ 2 hướng từ trái qua phải từ trên xuống dưới vào vùng đầu bên trái của L gây nên vết sưng bầm tím diện (0,7x2) cm; phát thứ 3 và thứ 4 vào bắp tay phải của L tạo nên vết sưng bầm tím diện (13x11) cm; phát thứ 5 vào mu bàn tay phải của L theo chiều từ trên xuống dưới từ phải qua trái tạo nên vết sưng nề diện (6x4) cm. Trong lúc P và Ọ đang đè L xuống phía dưới đuôi bên trái của xuồng máy làm xuồng máy mất cân bằng và bị nước tràn vào trong dẫn đến xuồng có nguy cơ bị chìm, P và Ọ mới thả L ra. P bám vào thuyền Cầm Văn Th còn Ọ bơi ra thuyền của mình chèo vào bờ còn L buông dao đang cầm ở tay phải bơi ra khỏi thuyền và bám vào 01 can nhựa rồi được Lò Văn Th chèo thuyền đưa vào bờ sau đó được đưa ra bệnh viện Đa khoa tỉnh Điện Biên cấp cứu.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 226/Ttg ngày 28/12/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Điện Biên kết luận: Trần Anh L bị tổn hại 8% sức khỏe do thương tích gây nên, trong đó có 6% thương tích do bị cáo Lường Văn L gây nên, còn 2% do P và Ọ gây nên.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 227/Ttg ngày 28/12/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Điện Biên kết luận: Mái chèo bằng gỗ màu vàng mật độ rắn chắc trọng lượng 190 gram, dài 46 m (Gồm cả phần thân mái chèo và phần tay cầm) có thể gây nên thương tích cho Trần Anh L phù hợp với đặc điểm hình thành dấu vết thương tích do ngoại lực của vật tày gây nên như đã mô tả trong Bản kết luận giám định pháp y thương tích số 226/Ttg ngày 28/12/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Điện B.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 71/KL – ĐG ngày 26/12/2018 và số 07/KL - ĐG ngày 15/02/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Điện Biên luận: Chiếc động cơ máy thủy nhãn hiệu YAMAHA xuất xứ Nhật Bản , model E25BMHS đã bị hỏng các bộ phận có giá trị 29.960.000 đồng; Một tấm lợp kim loại của xuồng máy đã bị rách có giá trị 216.000 đồng, chiếc điện thoại OPPO A59 đã bị hỏng có giá trị là 1.900.000 đồng.

Tại phiên tòa, bị cáo cũng thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã truy tố: Do không kiểm soát được hành động của mình, bị cáo đã có hành vi dùng mái chèo bằng gỗ là hung khí nguy hiểm đánh anh L 5 cái gây ra thương tích là 06%. Sau khi anh L bị thương tích và phải điều trị tại bênh viện đa khoa tỉnh Điện Biên, bị cáo đã tự nguyện cùng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Lường Văn P và Lò Văn Ọ thỏa thuận bồi thường toàn bộ thương tích sức khỏe và các thiệt hại khác cho Anh L số tiền là 10.000.000 đồng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn thật thà khai báo.

Người bị hại anh Trần Anh L cũng khai nhận do L cùng P và Ọ đã đánh anh, gây thương tích cho anh theo kết luận giám định pháp y là 8%, gây thiệt hại về sức khỏe, P và Ọ đã trèo lên xuồng làm xuồng máy của hợp tác xã bị chìm. Trong khi P, Ọ đè anh xuống xuồng thì bị cáo L đã dùng tay chèo đánh anh gây thương tích cho anh là 6%, còn 2% thương tích do P và Ọ gây ra cho anh. Sau khi anh nhập viện và ra viện bị cáo L cùng Ọ và P đã thỏa thuận bồi thường thiệt hại về chi phí khám chữa bệnh, các tài sản bị mất, giấy tờ bị mất và các chi phí khác cho anh, tổng số tiền là 10.000.000 đồng, anh không yêu cầu bồi thường thêm gì khác về dân sự. Về trách nhiệm hình sự, trong giai đoạn điều tra, anh đã đề nghị giảm nhẹ tội cho bị cáo song tại phiên tòa anh đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, ông Trần Văn C là đại diện cho Nguyên đơn dân sự có ý kiến: Bị cáo L cùng một số người đã đánh cá trái phép thuộc khu vực nuôi trồng và quản lý của hợp tác xã Thủy sản mà ông là Giám đốc. Sau khi bị cáo L cùng P và Ọ đánh anh L là bảo vệ của hợp tác gây thương tích cho anh L và gây ra thiệt hại làm chiếc xuồng bị chìm, gây thiệt hại cho các thiết bị máy móc, thiệt hại về giá trị theo như kết luận định giá tài sản. P và Ọ đã bồi thường đầy đủ cho hợp tác xã Thủy sản số tiền 36.770.000 đồng, ông không yêu cầu bồi thường thêm gì khác.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Lường Văn P tại đơn xin xét xử vắng mặt có ý kiến giữ nguyên lời khai và quan điểm đã khai tại cơ quan điều tra, anh cùng bị cáo L và Lò Văn Ọ đã bồi thường đầy đủ cho anh L. Cùng Lò Văn Ọ bồi thường đầy đủ cho anh Trần Văn C, anh không có ý kiến gì khác, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Về vật chứng cơ quan điều tra đã thu giữ của anh là chiếc xuồng gỗ, 2 tay chèo, anh không yêu cầu nhận lại do đã hư hỏng và cồng kềnh, đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Lò Văn Ọ: Tại phiên tòa cũng đã khai nhận đã cùng Lường Văn P và L đánh anh L gây nên thương tích cho anh L, anh đã cùng bị cáo L và Lò Văn P bồi thường cho anh Luân. Cùng P bồi thường cho hợp tác xã Thủy sản, không có ý kiến gì khác. Về phần vật chứng thu giữ là chiếc xuồng, 02 mái chèo và lưới đánh cá anh không yêu cầu nhận lại do cồng kềnh và để lâu trong kho không sử dụng được, đề nghị Tòa án xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại Bản Cáo trạng số: 54/CT-VKSĐB ngày 22/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên đã truy tố bị cáo về tội: "Cố ý gây thương tích" theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 134/BLHS năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm a Khoản 1 Điều 134/BLHS; khoản 1, khoản 2 Điều 36 BLHS; Điểm b, s Khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015: Xử phạt bị cáo Lường Văn L từ 18 đến 24 tháng cải tạo không giam giữ về tội: “Cố ý gây thương tích". Bị cáo hoàn cảnh gia đình khó khăn, đề nghị HĐXX miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Pá Kh và gia đình giám sát, giáo dục bị cáo

Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106/BLTTHS: Đề nghị HĐXX, tịch thu tiêu hủy các vật chứng đã thu giữ sau:

- Tịch thu tiêu hủy các vật chứng đã thu giữ:

+ 01 thuyền bằng gỗ dài 3,7 m, đuôi thuyền rộng 20 cm, mũi thuyền rộng 15 cm, thành thuyền chỗ cao nhất là 20 cm, thân thuyền chỗ rộng nhất 43 cm, đã qua sử dụng; 01 mái chèo bằng gỗ có chiều dài 46 cm, phần rộng nhất 8 cm, phần hẹp nhất 7 cm, có tay cầm dài 10 cm hình trụ tròn có đường kính 2,5 cm; 01 mái chèo bằng gỗ có chiều dài 47 cm, chỗ rộng nhất 9 cm, có tay cầm dài 13 cm đã qua sử dụng; 01 tay lưới then ba dài 50 m x 1,2 m đã qua sử dụng, thu giữ của Lường Văn L.

+ 01 thuyền bằng gỗ dài 3,8 m, đuôi thuyền rộng 30 cm, mũi thuyền nhọn, thành thuyền chỗ cao nhất là 30 cm, thân thuyền chỗ rộng nhất 48 cm, đã qua sử dụng; 01 mái chèo bằng gỗ có chiều dài 51 cm, chỗ rộng nhất 8 cm, có tay cầm dài 13 cm đã qua sử dụng; 01 mái chèo bằng gỗ có chiều dài 50 cm, chỗ rộng nhất 8 cm, có tay cầm dài 11 cm, đã qua sử dụng, thu giữ của Lường Văn P + 01 thuyền bằng gỗ dài 3,6 m, đuôi thuyền rộng 27 cm, mũi thuyền nhọn, thành thuyền chỗ cao nhất là 25 cm, thân thuyền chỗ rộng nhất 53 cm, đã qua sử dụng; 01 mái chèo bằng gỗ có chiều dài 51 cm, chỗ rộng nhất 8 cm, có tay cầm dài 12 cm đã qua sử dụng; 01 mái chèo bằng gỗ có chiều dài 49 cm, chỗ rộng nhất 8 cm, có tay cầm dài 11 cm, thân mái chèo bị cong đã qua sử dụng; 01 tay lưới then ba dài 70 m x 1,5 m đã qua sử dụng, thu giữ của Lò Văn Ọ.

+ 01 bao tải nilon có màu đỏ, vàng, trắng đã được cắt và dùng chỉ khâu làm túi đựng đồ, mặt trước của túi có chữ "B14S", mặt sau của túi bên dưới có hàng chữ "Sản phẩm không sử dụng chất cấm", bao tải nilon đã cũ đã qua sử dụng (Đây là bao tải còn lại trên xuồng máy sau khi bị chìm, do Trần Việt Ph giao nộp).

+ 01 ná cao su có tay cầm bằng gỗ, có chiều dài 13,5 cm, hai đoạn dây màu đỏ mỗi dây có chiều dài 22 cm và một miếng da màu vàng cam dài 4,3 cm. Hai đầu dây cao su màu đỏ được cuốn bằng sợi dây cao su màu đen vào đầu thanh gỗ, thu giữ của Trần Anh L.

Đề nghị trả lại cho người bị hại Trần Anh L: 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO A59 màu vàng hồng, màn hình có nhiều vết xước, không khởi động được.

Chấp nhận biên bản trao trả tài sản của cơ quan cảnh sát điều tra cho ông Trần Văn C - Giám đốc hợp tác xã Thủy sản Mường Ph là một chiếc động cơ máy thủy theo Quyết định xử lý vật chứng số 18 ngày 18/02/2019 và biên bản trao trả lại đồ vật, tài liệu ngày 18/02/2019 cho ông Trần Văn C.

Chấp nhận việc người bị hại, đại diện nguyên đơn dân dân sự cùng bị cáo L cùng P, Ọ đã thỏa thuận bồi thường dân sự, không có yêu cầu gì khác Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS và điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống tại địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, đề nghị HĐXX miễn án phí HSST cho bị cáo.

Ý kiến Người bào chữa: Nhất trí với cáo trạng và Quyết định đưa vụ án ra xét xử là đúng người đúng tội và có căn cứ pháp luật. Nhất trí đề nghị của đại diện Viện kiếm sát về tội danh, việc miễn khấu trừ thu nhập và miễn án phí cho bị cáo. Người bào chữa đưa ra luận điểm: Bị cáo gây thương tích chỉ là hành động bột phát, không chuẩn bị các công cụ phương tiện phạm tội, thương tích gây ra cho bị hại chỉ là 6%, đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả, đã thành khẩn thật thà khai báo. Bị cáo có bố dượng là ông Vì Văn T được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhì. Đề nghị HĐXX áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 36 BLHS, áp dụng mức hình phạt khởi điểm mà Viện kiểm sát đề nghị.

Đại diện Viện kiểm sát, người bào chữa không có tranh luận gì.

Bị cáo không có ý kiến bổ sung vào lời bào chữa. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ tội cho bị cáo.

Nguyên đơn dân sự, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, nguyên đơn dân sự, người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]Xét hành vi của bị cáo bị truy tố: Ngày 18/12/2018, Lường Văn L trong khi thấy P và Ọ đang đánh anh L đã dùng mái chèo bằng gỗ có mật độ rắn chắc theo quy định là hung khí nguy hiểm vụt 5 cái vào người anh Trần Anh L gây tổn thương cơ thể là 6%. Hành vi của bị cáo được chứng minh bằng các biên bản khám nghiệm hiện trường và bản ảnh kèm theo, các kết luận giám định pháp y về tỷ lệ thương tích, Kết luận giám định về vật gây nên thương tích, về cơ chế hình thành dấu vết thương tích, các biên bản ghi lời khai của bị cáo, người bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở khẳng định, hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội: “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134/BLHS.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền được bảo vệ về sức khỏe của người khác, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an và an toàn xã hội. Từ những phân tích trên, HĐXX khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.

[3] Xét tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Bị cáo đã dùng mái chèo bằng gỗ gây nên tổn thương cơ thể cho anh L là 6% thuộc điểm a khoản 1 Điều 134 BLHS với mức hình phạt từ thì phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Từ nhỏ được gia đình nuôi cho ăn học đến lớp 2/12 thì bỏ học cùng gia đình, làm nông nghiệp tại bản Đông Mệt 2, xã Mường Ph, huyện Đ B là địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Ngày 23/8/2005 bị Tòa án nhân dân huyện Điện B xử phạt 03 tháng 19 ngày tù về tội: “Trộm cắp tài sản”, hiện đã được xóa án tích. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hành vi phạm tội của bị cáo là ít nghiêm trọng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, HĐXX xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo Điểm s Khoản 1 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Sau khi phạm tội, bị cáo đã cùng với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Lường Văn P và Lò Văn Ọ thỏa thuận bồi thường về sức khỏe, tài sản bị mất cho người bị hại là anh Trần Anh L số tiền 10.000.000 đồng, bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ theo điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo có bố dượng là ông Vì Văn T là người nuôi dưỡng bị cáo từ nhỏ được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhì nên HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015.

Để quyết định mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, HĐXX xét xử xét thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là ít nghiêm trọng, gây thương tổn cơ thể cho người bị hại 6%. Bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 BLHS, một tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 BLHS, bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào. Mặt khác về nhân thân bị cáo đã từng phạm tội song là tội ít nghiêm trọng, sau khi chấp hành song trở về địa phương đến trước lần phạm tội này chưa có hành vi vi phạm pháp luật nào. Hành vi đánh anh L chỉ là sự bột phát cá nhân, không có động cơ nào khác, gây ra thương tích cho anh L chỉ 6%, sau khi phạm tội thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, đã tự nguyện khắc phục và bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị hại, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng.

Do vậy không nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội cũng đủ răn đe, giáo dục bị cáo, HĐXX áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tạo điều kiện cho bị cáo lao động, học tập cải tạo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương và gia đình cũng đủ giáo dục, cải tạo bị cáo để trở hành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Bị cáo Lường Văn Long L cùng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Lường Văn P, Lò Văn Ọ trước và trong khi thực hiện hành vi gây thương tích cho anh L không có sự bàn bạc thống nhất, hành vi gây thương tích là bột phát của từng cá nhân trong vụ án nên vụ án không có đồng phạm, từng cá nhân phải chịu trách nhiệm độc lập đối với hậu quả mà mình đã gây ra. Lường Văn P và Lò Văn Ọ dùng tay, chân gây thương tích cho anh L song tỷ lệ thương tích là 2% không cấu thành tội phạm, cơ quan cảnh sát điều tra đã xử lý hành chính về hành vi cố ý gây thương tích nên HĐXX không xem xét.

{5}Theo khoản 3 Điều 36 Bộ luật hình sự, người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ thu nhập một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung ngân sách nhà nước song xét hoàn cảnh gia đình bị cáo chỉ làm nông nghiệp, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên không có khả năng thi hành, HĐXX không khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

{6}. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo L cùng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là P và Ọ đã thỏa thuận và tự nguyện bồi thường đầy đủ thiệt hại cho người bị hại là anh Trần Anh L số tiền 10.000.000 đồng. Lường Văn P cùng Lò Văn Ọ đã bồi thường cho ông Trần Văn C số tiền là 36.770.000 đồng. Anh C, anh L không có yêu cầu gì thêm về bồi thường dân sự. HĐXX xét thấy đây là sự tự nguyện thỏa thuận đúng quy định của pháp luật nên căn cứ Điều 584, 585, 587, 589, 590 Bộ luật Dân sự chấp nhận.

[7]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ Luật TTHS: Xét thấy các vật chứng là các tài sản thu giữ để lâu trong kho vật chứng nên đã hỏng, không sử dụng được. Bị cáo L cùng P, Ọ đề nghị không nhận lại, HĐXX thấy cần tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:

- 01 thuyền bằng gỗ dài 3,7 m, đuôi thuyền rộng 20 cm, mũi thuyền rộng 15 cm, thành thuyền chỗ cao nhất là 20 cm, thân thuyền chỗ rộng nhất 43 cm, đã qua sử dụng; 01 mái chèo bằng gỗ có chiều dài 46 cm, phần rộng nhất 8 cm, phần hẹp nhất 7 cm, có tay cầm dài 10 cm hình trụ tròn có đường kính 2,5 cm; 01 mái chèo bằng gỗ có chiều dài 47 cm, chỗ rộng nhất 9 cm, có tay cầm dài 13 cm đã qua sử dụng; 01 tay lưới then ba dài 50 m x 1,2 m đã qua sử dụng, thu giữ của Lường Văn L.

- 01 thuyền bằng gỗ dài 3,8 m, đuôi thuyền rộng 30 cm, mũi thuyền nhọn, thành thuyền chỗ cao nhất là 30 cm, thân thuyền chỗ rộng nhất 48 cm, đã qua sử dụng; 01 mái chèo bằng gỗ có chiều dài 51 cm, chỗ rộng nhất 8 cm, có tay cầm dài 13 cm đã qua sử dụng; 01 mái chèo bằng gỗ có chiều dài 50 cm, chỗ rộng nhất 8 cm, có tay cầm dài 11 cm, đã qua sử dụng, thu giữ của Lường Văn P - 01 thuyền bằng gỗ dài 3,6 m, đuôi thuyền rộng 27 cm, mũi thuyền nhọn, thành thuyền chỗ cao nhất là 25 cm, thân thuyền chỗ rộng nhất 53 cm, đã qua sử dụng; 01 mái chèo bằng gỗ có chiều dài 51 cm, chỗ rộng nhất 8 cm, có tay cầm dài 12 cm đã qua sử dụng; 01 mái chèo bằng gỗ có chiều dài 49 cm, chỗ rộng nhất 8 cm, có tay cầm dài 11 cm, thân mái chèo bị cong đã qua sử dụng; 01 tay lưới then ba dài 70 m x 1,5 m đã qua sử dụng, thu giữ của Lò Văn Ọ.

- 01 bao tải nilon có màu đỏ, vàng, trắng đã được cắt và dùng chỉ khâu làm túi đựng đồ, mặt trước của túi có chữ "B14S", mặt sau của túi bên dưới có hàng chữ "Sản phẩm không sử dụng chất cấm", bao tải nilon đã cũ đã qua sử dụng.

- 01 ná cao su có tay cầm bằng gỗ, có chiều dài 13,5 cm, hai đoạn dây màu đỏ mỗi dây có chiều dài 22 cm và một miếng da màu vàng cam dài 4,3 cm. Hai đầu dây cao su màu đỏ được cuốn bằng sợi dây cao su màu đen vào đầu thanh gỗ, thu giữ của Trần Anh L Trả lại cho Trần Anh L 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO A59 màu vàng hồng, màn hình có nhiều vết xước, không khởi động được.

Chấp nhận biên bản trao trả tài sản của cơ quan cảnh sát điều tra cho ông Trần Văn C - Giám đốc hợp tác xã Thủy sản Mường Ph là một chiếc động cơ máy thủy theo Quyết định xử lý vật chứng số 18 ngày 18/02/2019 và biên bản trao trả lại đồ vật, tài liệu ngày 18/02/2019 cho ông Trần Văn C.

[8] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Miễn án phí HSST cho bị cáo.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a Khoản 1 Điều 134/BLHS; Khoản 1, khoản 2 Điều 36 Bộ luật hình sự; Điểm b, s Khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS:

1. Tuyên bố: Bị cáo Lường Văn L phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.

2. Xử phạt: Bị cáo Lường Văn L 21 (Hai mươi mốt) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã Pá Kh, huyện Điện Biên nhận được Bản án và Quyết định thi hành án.

Miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo theo khoản 3 Điều 36 BLHS.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Pá Kh, huyện Điện Biên và gia đình giám sát, giáo dục.

3. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, 585, 587, 589, 590 Bộ luật Dân sự: Chấp nhận sự thỏa thuận liên đới bồi thường dân sự bị cáo Lường Văn L cùng Lường Văn P, Lò Văn Ọ với người bị hại Trần Anh L, anh L không yêu cầu bồi thường thêm gì khác. Chấp nhận việc ông Trần Văn C không yêu cầu Lường Văn P cùng Lò Văn Ọ bồi thường thêm gì khác.

4. Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ Luật TTHS:

- Tịch thu tiêu hủy các vật chứng đã thu giữ:

+ 01 thuyền bằng gỗ dài 3,7 m, đuôi thuyền rộng 20 cm, mũi thuyền rộng 15 cm, thành thuyền chỗ cao nhất là 20 cm, thân thuyền chỗ rộng nhất 43 cm, đã qua sử dụng;

01 mái chèo bằng gỗ có chiều dài 46 cm, phần rộng nhất 8 cm, phần hẹp nhất 7 cm, có tay cầm dài 10 cm hình trụ tròn có đường kính 2,5 cm; 01 mái chèo bằng gỗ có chiều dài 47 cm, chỗ rộng nhất 9 cm, có tay cầm dài 13 cm đã qua sử dụng; 01 tay lưới then ba dài 50 m x 1,2 m đã qua sử dụng, thu giữ của Lường Văn L.

+ 01 thuyền bằng gỗ dài 3,8 m, đuôi thuyền rộng 30 cm, mũi thuyền nhọn, thành thuyền chỗ cao nhất là 30 cm, thân thuyền chỗ rộng nhất 48 cm, đã qua sử dụng; 01 mái chèo bằng gỗ có chiều dài 51 cm, chỗ rộng nhất 8 cm, có tay cầm dài 13 cm đã qua sử dụng; 01 mái chèo bằng gỗ có chiều dài 50 cm, chỗ rộng nhất 8 cm, có tay cầm dài 11 cm, đã qua sử dụng, thu giữ của Lường Văn P.

+ 01 thuyền bằng gỗ dài 3,6 m, đuôi thuyền rộng 27 cm, mũi thuyền nhọn, thành thuyền chỗ cao nhất là 25 cm, thân thuyền chỗ rộng nhất 53 cm, đã qua sử dụng; 01 mái chèo bằng gỗ có chiều dài 51 cm, chỗ rộng nhất 8 cm, có tay cầm dài 12 cm đã qua sử dụng; 01 mái chèo bằng gỗ có chiều dài 49 cm, chỗ rộng nhất 8 cm, có tay cầm dài 11 cm, thân mái chèo bị cong đã qua sử dụng; 01 tay lưới then ba dài 70 m x 1,5 m đã qua sử dụng, thu giữ của Lò Văn Ọ.

+ 01 bao tải nilon có màu đỏ, vàng, trắng đã được cắt và dùng chỉ khâu làm túi đựng đồ, mặt trước của túi có chữ "B14S", mặt sau của túi bên dưới có hàng chữ "Sản phẩm không sử dụng chất cấm", bao tải nilon đã cũ đã qua sử dụng, thu giữ của Trần Việt Ph.

+ 01 ná cao su có tay cầm bằng gỗ, có chiều dài 13,5 cm, hai đoạn dây màu đỏ mỗi dây có chiều dài 22 cm và một miếng da màu vàng cam dài 4,3 cm. Hai đầu dây cao su màu đỏ được cuốn bằng sợi dây cao su màu đen vào đầu thanh gỗ, thu giữ của Trần Anh L.

- Trả lại cho Trần Anh L: 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO A59 màu vàng hồng, màn hình có nhiều vết xước, không khởi động được.

Chấp nhận biên bản trao trả tài sản của cơ quan cảnh sát điều tra cho ông Trần Văn C - Giám đốc hợp tác xã Thủy sản Mường Ph là một chiếc động cơ máy thủy theo Quyết định xử lý vật chứng số 18 ngày 18/02/2019 và biên bản trao trả lại đồ vật, tài liệu ngày 18/02/2019 cho ông Trần Văn C.

(Toàn bộ vật chứng đã được Công an huyện Điện Biên bàn giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên hồi 16 giờ 00 phút ngày 26 tháng 3 năm 2019)

5. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và và điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Miễn án phí HSST cho bị cáo.

6. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, nguyên đơn dân sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày 21/5/2019. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2019/HS-ST ngày 21/05/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:71/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về