Bản án 71/2019/HSST ngày 21/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 71/2019/HSST NGÀY 21/03/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 3 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 107/2019/HSST, ngày 21/02/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 828/2019/QĐXXST- HS, ngày 26/02/2019 đối với bị cáo:

Dương Anh D; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1987 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 467/72/7 Lê Đức Thọ, Phường Q, quận W, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Dương Văn H và bà Nguyễn Thị T; Hoàn cảnh gia đình: có vợ là bà Phan Thị Kim L và 01 con (sinh năm 2018); Tiền án: Không;

Tiền sự: Ngày 16/05/2016, Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm giáo dục lao động xã hội Phúc Đức, tỉnh Bình Phước, thời hạn 15 tháng do có hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” theo Quyết định số: 77/QĐ-TA.

Nhân thân: Ngày 22/9/2011, Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số: 202/2011/HSST.

Bị tạm giữ, tạm giam ngày: 13/9/2018 - Có mặt. Những người tham gia tố tụng khác:

- Người bào chữa: Ông Đỗ Ngọc Oánh là luật sư của Văn phòng luật sư Đỗ Ngọc Oánh thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa chỉ định cho bị cáo Dương Anh D - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 12 giờ 45 phút, ngày 13/9/2018, trước nhà số 331 Phan Huy Ích, Phường Q, quận W, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an quận W phát hiện Dương Anh D đang có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy. Thu giữ trong túi da màu nâu của D đang đeo trước ngực 01 hộp giấy có ghi chữ Infinity bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 196,1465 gam, loại Ketamine (Kết luận giám định số: 1532/KLGĐ-H ngày 21/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh) nên đưa D cùng vật chứng vụ án đến Công an Phường Q, quận W lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Quá trình điều tra, D khai nhận: Bản thân nghiện ma túy và đã nhiều lần mua ma túy của người đàn ông tên Thanh (không rõ lai lịch) để sử dụng. Ngày 12/9/2018, một người bạn tên Sang (không rõ lai lịch) hỏi mua của D 200 gam ma túy, loại Ketamine, D đồng ý. D điện thoại cho Thanh hỏi mua 200 gam Ketamine với giá 40.000.000 đồng để bán lại cho Sang giá 43.000.000 đồng.

Như đã thỏa thuận trước với Thanh, tối ngày 12/9/2018 D đi đến khu vực đường Nguyễn Văn Lượng, quận Gò Vấp đưa 40.000.000 đồng cho một người thanh niên (không rõ lai lịch) đem về đưa cho Thanh để đi mua ma túy. Đến khoảng 09 giờ, ngày 13/9/2018, D đi đến khu vực sân bóng đá Đạt Đức, quận Gò Vấp gặp Thanh để nhận ma túy được để trong 01 hộp giấy có ghi chữ Infinity. Sau khi lấy ma túy xong, Dũng bỏ vào túi da màu nâu đeo trước ngực định đi bán cho Sang nhưng chưa bán được thì bị bắt giữ như đã nêu trên.

Vật chứng thu giữ:

- 01 gói niêm phong bên ngoài ghi số 1532/18, có hình dấu của Công an Phường 14, quận Gò Vấp, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng, sim số 0902418429.

- 01 bình nhựa có gắn ống hút nhựa và nỏ thủy tinh.

- 40 bịch nylon và 03 nỏ thủy tinh.

- 01 máy hàn nylon màu xanh hiệu Tân Thanh.

- 01 xe gắn máy hiệu SUZUKI loại Raider, biển số: 79Z1-328.62, số khung: RLSDL11ANHV101636, số máy: CGA1501644.

- 5.000.000 (năm triệu) đồng.

Bản cáo trạng số: 71/CTr-VKS-P1, ngày 14/02/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố:

- Bị cáo Dương Anh D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm e khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa,

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Dương Anh D đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích, đánh giá, tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nêu lên những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Dương Anh D phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm e khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Dương Anh D từ 15 (mười lăm) năm tù đến 17 (mười bảy) năm tù.

Phạt bị cáo Dương Anh D số tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.

Về vật chứng:

Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Dương Anh D thống nhất với đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về phần tội danh. Luật sư cho rằng trong vụ án này khối lượng ma túy bị bắt quả tang nên hậu quả đã được ngăn chặn kịp thời, bị cáo có con nhỏ, hoàn cảnh gia đình khó khăn, nhận thức pháp luật còn hạn chế. Ngoài ra, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức hình phạt thấp hơn mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị.

Luật sư và Kiểm sát viên bảo lưu ý kiến của mình đã trình bày trước phiên tòa, không tranh luận bổ sung.

Bị cáo Dương Anh D không tranh luận mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, luật sư và những người tham gia tố tụng khác;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Dương Anh D khai nhận về hành vi phạm tội do bị cáo gây ra đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố. Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và vụ án còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định... Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:

Lúc 12 giờ 45 phút, ngày 13/9/2018, trước nhà số 331 Phan Huy Ích, Phường Q, quận W, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an quận W phát hiện Dương Anh D đang có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy để bán cho người khác nhằm thu lợi bất chính. Như vậy, hành vi của bị cáo Dương Anh D đã phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay đều xác định bị cáo Dương Anh D có hành vi mua bán trái phép chất ma túy có khối lượng 196,1465 gam, loại Ketamine (Kết luận giám định số: 1532/KLGĐ-H ngày 21/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh) nên thuộc trường hợp mua bán “Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 100 gam đến dưới 300 gam”. Vì vậy, cần phải áp dụng điểm e khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Dương Anh D.

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm hại đến việc quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy mà còn xâm hại trực tiếp đến trật tự trị an xã hội, tiếp tay cho tệ nạn ma túy gia tăng. Bị cáo biết rất rõ ma túy là một tệ nạn xã hội nguy hiểm, không chỉ hủy hoại sức khỏe con người mà còn là nguồn gốc phát sinh ra nhiều loại tội phạm khác nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, để giữ gìn kỷ cương pháp luật, để củng cố niềm tin của nhân dân, cần phải xử bị cáo mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra nhằm mục đích giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa cho toàn xã hội.

Ngoài hình phạt chính, cần áp dụng thêm khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự phạt bổ sung bị cáo Dương Anh D một khoản tiền để sung vào ngân sách Nhà nước.

Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Dương Anh D thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Đối với người thanh niên tên Thanh đã bán ma túy cho bị cáo Dương Anh D và thanh niên tên Sang đã liên lạc mua ma túy của bị cáo D, do D khai không rõ lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ để xử lý là có cơ sở.

Về vật chứng của vụ án:

- Đối với toàn bộ số ma túy; 01 bình nhựa có gắn ống hút nhựa và nỏ thủy tinh; 40 bịch nylon; 01 máy hàn nylon màu xanh hiệu Tân Thanh và 03 nỏ thủy tinh thu giữ của bị cáo Dương Anh D là tang vật liên quan đến vụ án, là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng, sim số 0902418429 thu giữ của bị cáo Dương Anh D do bị cáo D sử dụng để liên lạc trong việc mua bán ma túy nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 (một) xe gắn máy hiệu SUZUKI loại Raider, biển số: 79Z1- 328.62, số khung: RLSDL11ANHV101636, số máy: CGA1501644 cùng 01 giấy đăng ký xe thu giữ của bị cáo D. Qua xác minh xe do anh Trương Nhật Minh (Sinh năm 1993 ngụ tại thôn Tân Lập, xã Cam Phước Tây, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa) đứng tên sở hữu. Sau đó, anh Minh đã ủy quyền cho anh Tô Trọng Đức (Sinh năm 1983 ngụ tại 226/27 Độc Lập, phường Tân Quý, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh) làm thủ tục mua bán xe. Ngày 03/01/2018, anh Đức đã bán xe trên cho bị cáo D. Bị cáo D sử dụng chiếc xe trên để làm phương tiện phục vụ cho việc mua bán ma túy nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng là tiền của cá nhân bị cáo D không liên quan không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại cho bị cáo D.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Dương Anh D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

- Áp dụng điểm e khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Dương Anh D: 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày: 13/9/2018.

Phạt bị cáo Dương Anh D số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.

- Áp dụng Điều 47; Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước:

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng model A1507, imei:...124671 (màn hình bể).

+ 01 (một) xe hai bánh gắn máy, nhãn hiệu: Suzuki, loại xe: 02 bánh, số loại: Raider, biển số: 79Z1-328.62, số khung: RLSDL11ANHV101636, số máy: CGA1501644.

Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) gói ma túy còn lại sau giám định đã niêm phong, ghi số 1532/18 có hình dấu của Công an Phường 14, quận Gò Vấp, chữ ký của Dương Anh D và chữ ký Giám định viên Trần Đình Hải, cán bộ điều tra Lê Quang Hưng.

+ 01 (một) bình nhựa có gắn nỏ thủy tinh và ông hút nhựa.

+ 03 (ba) nỏ thủy tinh đã sử dụng.

+ 20 (hai mươi) bịch nylon có kích thước khoảng 03x07cm.

+ 20 (hai mươi) bịch nylon có kích thước khoảng 06x09cm.

+ 01 (một) máy hàn túi nylon màu xanh hiệu Tân Thanh.

+ 01 (một) túi da màu nâu và 01 (một) hộp giấy màu xám bên ngoài ghi chữ INFINITY.

Trả lại cho bị cáo Dương Anh D:

+ 5.000.000 (năm triệu) đồng.

(Theo biên bản giao nhận tang tài vật số: 168/19 ngày 24 tháng 01 năm 2019 của Cục thi hành án dân sự, Thành phố Hồ Chí Minh; Giấy nộp tiền vào tài khoản số: 39490905977500000 tại NBNN: Quận 10, ngày 21/9/2018).

- Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2019/HSST ngày 21/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:71/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về