Bản án 71/2019/HS-ST ngày 20/08/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 71/2019/HS-ST NGÀY 20/08/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 20 tháng 8 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 94/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 82/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Hồng V (tên gọi khác: Tý) – sinh năm: 1985, tại Đồng Nai; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp TL2, xã PT, huyện TP, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Ng (đã chết) và bà Phạm Thị Q – 1960; Vợ: Ngô Thanh H – 1986; Có 02 con: Lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2015; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị tạm giam từ ngày 25/6/2019. (có mặt) - Bị hại: Nguyễn Văn B – 1976. (có mặt) Địa chỉ: Thôn ÔT, phường TP, thị xã PM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

- Người làm chứng:

1. Ngô Thanh H – 1986. (có mặt)

2. Nguyễn Thị N – 1959. (vắng mặt)

3. Ngô Văn V1 – 1959. (có mặt)

4. Nguyễn Thị H1 – 1972. (vắng mặt)

5. Ngô Văn B1 – 1958. (vắng mặt)

Cùng địa chỉ: Ấp TL2, xã PT, huyện TP, Đồng Nai.

6. Nguyễn Thị M – 1966. (vắng mặt)

Địa chỉ: Xã TP, huyện TT, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

- Người giám định: Ông Võ Thanh H2 – Giám định viên Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Đồng Nai. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu, có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Hồng V và Nguyễn Văn B có mối quan hệ là họ hàng.

Khong 21 giờ ngày 17/9/2018, sau khi uống rượu xong, Nguyễn Hồng V nghe Ngô Thanh H (vợ V) nói Nguyễn Văn B đang ở nhà ông Ngô Văn V1 (cha ruột H). Do cho rằng trước đây anh B có chửi V từ việc xảy ra đánh nhau giữa V và em rể anh B nên V nảy sinh ý định đánh B trả thù.

Thc hiện ý định trên, Nguyễn Hồng V điều khiển xe mô tô cầm theo 01 tuýt sắt dài khoảng 70cm, phần đầu tuýt sắt có gắn 01 lưỡi dao, phần lưỡi kích thước 30cmx06cm đi tìm B. Khi đi đến đầu đường vào nhà ông Nguyễn Văn V1 thuộc ấp TL1, xã PT, huyện TP, tỉnh Đồng Nai, V thấy B đang ngồi ở đầu đường nên V dừng xe lại. V bước đến dùng tay phải đấm 02 cái vào mặt B, tiếp đó V lấy cây tuýt sắt có gắn lưỡi dao mang theo chém thẳng vào người B thì B cầm được tuýt sắt giằng co làm rớt phần lưỡi dao xuống đất, quá trình giằng co, B bị V đẩy ngã về sau trúng vào hàng rào lưới sắt. Sau đó, Nguyễn Văn B bỏ chạy vào nhà ông Ngô Văn V1 và được người nhà đưa đi cấp cứu.

Hậu quả: Nguyễn Văn B bị tổn thương gãy xương chính mũi, không ảnh hưởng chức năng thở và ngửi; sẹo vai trái kích thước 05x0,3cm. Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0868/TgT/2018 ngày 31/10/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai đã giám định xác định Nguyễn Văn B bị thương tích với tỷ lệ thương tật 12%.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Hồng V đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình theo đúng nội dung vụ án nêu trên.

Bản cáo trạng số 86/CT-VKSTP-ĐN ngày 02 tháng 8 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Nguyễn Hồng V về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú giữ quyền công tố luận tội và tranh luận; phân tích dấu hiệu phạm tội; đánh giá các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đặc điểm nhân thân của bị cáo. Do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề xuất mức án đối với bị cáo Nguyễn Hồng V từ 03 tháng đến 04 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo số tiền 10.000.000 đồng đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Phú bồi thường chi phí chữa trị cho bị hại Nguyễn Văn B.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 tuýp sắt, màu kim loại trắng, dài 70cm; 01 lưỡi dao rựa, đầu có mấu nhọn, phần lưỡi kích thước 30cm x 06cm.

Bị hại Nguyễn Văn B trình bày: Vào khoảng 21 giờ ngày 17/9/2018, anh đang ở đầu ngõ nhà ông Nguyễn Văn V1 thì Nguyễn Hồng V đi xe mô tô đến và đi vào nhà nói “Mày là B, con ông Bán phải không?”, rồi V cầm 01 con dao quắm có mấu nhọn, gắn trên 01 tuýp sắt xông đến chém thẳng vào người anh nhưng anh đỡ được. V tiếp tục vung tuýp sắt có cán dao chém vào người anh lần thứ hai thì anh chụp được cán dao. Trong lúc giằng co thì lưỡi dao rơi ra khỏi cán. V dùng cán dao bằng cây tuýp sắt đẩy vào mũi của anh gây thương tích. Sau đó V tiếp tục đẩy ép cán dao về phía anh làm anh ngã vào hàng rào sắt. Lúc này, anh vùng ra và bỏ chạy về nhà ông V1 thì V cầm dao đuổi theo. Sau đó mọi người trong nhà ông Vị chạy ra can ngăn và đưa anh đi cấp cứu. Sau khi sự việc xảy ra, V có đến thăm hỏi và bồi thường cho anh nhưng anh không nhận. Tại phiên tòa hôm nay, xét bị cáo đã thực sự ăn năn, hối cãi nên anh xin giảm nhẹ hình phạt và không yêu cầu bị cáo bồi thường về trách nhiệm dân sự. Ngoài ra, anh đồng ý với kết luận giám định về việc xác định cơ chế hình thành vết thương là do nắm đấm gây ra.

Người làm chứng Ngô Thanh H trình bày: Chị là vợ của bị cáo Nguyễn Hồng V và là em họ của bị hại Nguyễn Văn B. Vào dịp Tết Nguyên đán năm 2012, vợ chồng chị có xuống huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu chơi. Tại đây, hai vợ chồng tôi xảy ra mâu thuẫn, anh V say rượu nên có chửi lớn tiếng với chị. Lúc đó có anh B, anh Th, anh D, anh H2 là anh họ của chị có đến can ngăn. Lúc đó anh B có chửi chồng chị còn anh H2 có dùng tay đánh vào mặt chồng chị 02 cái. Sau đó anh V bỏ về Tân Phú và từ đó đến nay không qua lại với gia đình anh B nữa mà thỉnh thoảng khi say rượu thì chồng chị có gọi điện thoại cự cãi với anh B. Còn sự việc chồng chị gây thương tích cho anh B vào ngày 17/9/2018 thì chị không chứng kiến.

Người làm chứng Ngô Văn B1 trình bày: Vào tối ngày 17/9/2018, khi đang ở nhà thì ông có nghe tiếng kêu cứu của anh B. Lúc chạy ra ngoài cửa thì ông thấy anh B bị V đánh. Anh B có nói “Chú ơi, thằng Tý nó đánh cháu”, sau đó bỏ chạy vào nhà ông Vị. Lúc này bị cáo cầm 01 cây tuýp sắt và 01 cây dao quắm chạy đuổi theo. Sau khi anh B vào đến nhà ông V1 thì mọi người trong nhà đóng cửa lại và giằng lấy cây tuýp sắt, con dao trên tay của bị cáo V. Nhưng lúc đó V không chịu về mà còn đe dọa sẽ không cho anh B ra khỏi nhà. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày thì có nhóm bạn của bị cáo V đến và đưa V về. Sau đó mọi người đưa anh B đi cấp cứu.

Người làm chứng Nguyễn Thị N, Ngô Văn V1, Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị M trình bày: Vào tối ngày 17/9/2018, khi đang ở nhà thì mọi người thấy anh B chạy về và nói “Chú V1 ơi, thằng Tý nó đánh cháu”. Lúc này bị cáo V đang cầm 01 cây tuýp sắt và 01 cây dao quắm chạy đuổi theo. Sau đó ông V1 chạy ra can ngăn và giữ bị cáo V lại, mọi người trong nhà đóng cửa lại. Ông V1 giằng lấy cây tuýp sắt, con dao trên tay của bị cáo V đem bỏ vào nhà. Nhưng lúc đó V không chịu về mà còn đòi gặp anh B để nói chuyện nhưng mọi người không cho vào. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày thì có nhóm bạn của bị cáo V đến và đưa V về. Sau đó mọi người đưa anh B đi cấp cứu.

Bị cáo có lời nói sau cùng như sau: Bị cáo biết hành vi của mình là sai trái và ăn năn hối cải. Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phú, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hồng V khai báo có hành vi dùng tay đấm vào mũi anh Nguyễn Văn B gây thương tích. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày 12/3/2019, bị hại Nguyễn Văn B khai báo bị Nguyễn Hồng V có hành vi cầm cán dao bằng hai tay đẩy vào mũi của anh gây thương tích.

Căn cứ vào B kết luận giám định pháp y về thương tích số 0868/TgT/2018 ngày 31/10/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai thể hiện “Chấn thương mũi do vật tày” và Văn bản số 458/TTPY/2018 ngày 22/11/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai giải thích kết luận giám định “...Tổn thương này do vật tày cứng tác động trực tiếp với lực tương đối hoặc vật tày mềm tác động trực tiếp với lực mạnh gây nên. Với nắm đấm bàn tay đấm mạnh vào vùng mũi có thể tạo nên tổn thương như trên”.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành trả hồ sơ để làm rõ cơ chế hình thành thương tích của bị hại. Theo Bản kết luận giám định pháp y trên hồ sơ số 0617/GĐHS/2019 ngày 19/7/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai xác định “Sưng nề sống mũi, sống mũi lệch. Gãy xương chính mũi. Tổn thương này do vật mềm hoặc vật tày có bề mặt nhẵn tác động lực mạnh gây ra. Tổn thương sưng nề sống mũi, sống mũi lệch, gãy xương chính mũi, khả năng cao do nạn nhân bị đánh bằng tay (vật tày mềm) vào vùng mũi gây ra. Với hung khí là tuýp sắt gửi giám định khi bị đè vào vùng mũi và đầu nạn nhân Nguyễn Văn B không bị tì đè vào vật cố định thì khó có thể gây nên tổn thương vùng mũi của nạn nhân”.

Tại phiên tòa, bị hại đồng ý với nội dung kết luận giám định thương tích về việc xác định cơ chế hình thành vết thương. Ngoài ra, không có tài liệu, chứng cứ nào khác xác định bị cáo dùng cán dao gây thương tích cho bị hại.

Do đó đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 21 giờ ngày 17/9/2018, tại ấp TL1, xã PT, huyện TP, tỉnh Đồng Nai, do có mâu thuẫn từ trước nên Nguyễn Hồng V dùng tay đấm vào mũi và đẩy anh Nguyễn Văn B vào hàng rào lưới sắt gây thương tích cho anh B với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 12%.

Hành vi do bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, nó trực tiếp xâm hại đến sức khỏe của người khác. Bị cáo thực hiện hành vi trên với lỗi cố ý. B thân bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Do đó bị cáo Nguyễn Hồng V đã phạm tội “Cố ý gây thương tích”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Xuất phát từ va chạm nhỏ trong cuộc sống mà bị cáo không kiềm chế được dẫn đến đã có hành vi gây thương tích cho người khác. Hành vi của bị cáo không chỉ trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của bị hại mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương.

[3]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã tự nguyện giao nộp tiền bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, còn xem xét bị cáo đang nuôi con nhỏ (01 con sinh năm 2009, 01 con sinh năm 2015), bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5]. Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.

[6]. Về hình phạt chính: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.

Do bị cáo V có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt nhằm thể hiện sự khoan hồng, nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét. Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hồng V số tiền 10.000.000đ đã tự nguyện giao nộp để bồi thường tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Phú.

[8]. Về xử lý vật chứng: Cơ quan công an thu giữ 01 tuýp sắt, màu kim loại trắng, dài 70cm; 01 lưỡi dao rựa, đầu có mấu nhọn, phần lưỡi kích thước 30cm x 06cm. Xét vật chứng trên là công cụ dùng vào việc phạm tội. Căn cứ vào quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[9]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[10]. Xét quan điểm đề nghị của Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 134, các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự;

- Điểm a khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hồng V phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hồng V 03 (ba) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 25 tháng 6 năm 2019.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hồng V số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền số 0003417 ngày 20 tháng 8 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 tuýp sắt, màu kim loại trắng, dài 70cm; 01 lưỡi dao rựa, đầu có mấu nhọn, phần lưỡi kích thước 30cm x 06cm (Theo Biên B giao, nhận vật chứng ngày 12 tháng 02 năm 2019).

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hồng V phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2019/HS-ST ngày 20/08/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:71/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về