Bản án 71/2019/HS-ST ngày 09/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 71/2019/HS-ST NGÀY 09/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 09 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 52/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Minh H, sinh năm: 1986 tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 5B15, Tổ 1, Ấp 5, xã PVH, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn Nh và bà Cao Thị M; bị cáo chưa có vợ con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 09/12/2018 (có mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 22 giờ 20 phút ngày 09/12/2018, Tổ tuần tra Trung đoàn cảnh sát cơ động Đông Nam phát hiện Trần Minh H trước địa chỉ: 5A11 Ấp 5, xã PVH có biểu hiện nghi vấn nên kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện trong túi quần bên phải phía trước H đang mặc có 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet bên trong có 01 gói ny lon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu (thường gọi là hàng đá) mà H khai nhận là ma túy để sử dụng. Công an tiến hành thu giữ vật chứng và đưa đối tượng về trụ sở Công an xã PVH, huyện B lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Căn cứ kết luận giám định số 168/KLGĐ-H ngày 18/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: “Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu M (thu giữ của Trần Minh H) cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2703g, loại Methamphetamine.

Tại cơ quan điều tra, bị cáo khai nhận: Vào lúc 18 giờ 30 phút ngày 09/12/2018, H gặp Vũ (không rõ lai lịch) tại quán cà phê Kim Quyền địa chỉ 5D40/7 Ấp 5, xã PVH, huyện B. Tại đây Vũ rủ H mua ma túy sử dụng. Cả hai mỗi người hùn 200.000 đồng, H đưa tiền cho Vũ đi mua ma túy còn H ngồi đợi ở quán. Một lúc sau, Vũ đem ma túy về, cả hai lấy ra một ít rồi cùng nhau sử dụng. Số ma túy còn lại Vũ đem bỏ vào gói thuốc lá hiệu Jet rồi đưa cho H giữ, còn Vũ đi về. Lúc này, có người bạn tên Ti (không rõ lai lịch) điện thoại cho H rủ H sử dụng ma túy thì H đồng ý. Ti điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) đến chở H tìm chổ sử dụng. Khi đến trước địa chỉ 5A11 Trần Văn G, Ấp 5, xã PVH, huyện B thì bị Cảnh sát cơ động Đông Nam phát hiện bắt quả tang, còn Ti chạy thoát.

Tại bản cáo trạng số 68/CT-VKS ngày 26 tháng 02 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trần Minh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

1. Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng.

2. Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B trình bày lời luận tội, giữ quan điểm truy tố như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Trần Minh H 18 tháng đến 24 tháng tù và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

3. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều phù hợp quy định của pháp luật.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang và những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, để có ma tuý sử dụng H và Vũ mỗi người hùn 200.000 đồng mua ma túy có khối lượng 0,2703g loại Methamphetamine. Với hành vi đó bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Hành vi của bị cáo đã vi phạm Luật phòng chống ma túy, xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất gây nghiện có độc tố cao, gây mất trật tự, trị an xã hội và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Do đó, cần có một mức án nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[4] Tuy nhiên cũng xét tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Từ đó, xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà đáng lẽ ra bị cáo phải chịu.

[5] Đối với đối tượng Vũ và Ti, hiện nay chưa xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan điều tra Công an huyện B chưa có cơ sở để điều tra xử lý, khi nào phát hiện được sẽ xử lý sau.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 gói ma túy, 01 nỏ thủy tinh đã bị gãy, 01 vỏ thuốc lá hiệu Jet. Xét không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu FPT màu đen thu giữ của bị cáo dùng để liên lạc sử dụng ma túy nên tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

[1] Tuyên bố bị cáo Trần Minh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2] Xử phạt: Bị cáo Trần Minh H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/12/2018.

[3] Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy:

- 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu thu giữ qua giám định có khối lượng 0,2703g là ma túy ở thể rắn loại Amphetamine. Sau giám định được niêm phong, bên ngoài ghi vụ 168/19 B cùng chữ ký Trần Minh H, Nguyễn Văn D, Đặng Xuân H, Ngô Văn Đ, Lê Thị H, Trần Thị Ngọc T và dấu công an xã PVH.

- 01 vỏ thuốc lá hiệu Jet và 01 nỏ thủy tinh đã bị gãy.

Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu FPT màu đen, Imei: 980030006682968.

Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 03/4/2019 tại Kho vật chứng Cơ quan Thi hành án dân sự huyện B.

[4] Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2019/HS-ST ngày 09/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:71/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về