Bản án 71/2019/HS-ST ngày 04/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 71/2019/HS-ST NGÀY 04/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 45/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 5 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Bá Q, sinh ngày 05 tháng 7 năm 198X tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn C1, xã T, huyện V Bảo, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Bá Q (đã chết) và bà Đặng thị S; chung sống như vợ chồng với chị Trần Thị Bích H và có 01 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Tại Bản án số 81/HSST ngày 13/3/1999 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo 12 tháng thử thách về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” (đã được xóa án tích); Bản án số 03/HS ngày 02/4/2002 của Tòa án nhân dân huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (đã được xóa án tích); Bản án số 59/2007/HSST ngày 24/5/2007 của Tòa án nhân dân thị xã Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, nộp 50.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm (đã được xóa án tích); bị tạm giữ ngày 28/12/2018; tạm giam ngày 02/01/2019; có mặt.

2. Nguyễn Văn T, sinh ngày 11 tháng 3 năm 198Y tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn C1, xã T, huyện V, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Ph và bà Bùi Thị Ch; có vợ là Bùi Thị P và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ ngày 28/12/2018; tạm giam ngày 02/01/2019; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 00 phút ngày 27/12/2018, Tổ công tác Công an phường Dư Hàng, quận Lê Chân, Hải Phòng phát hiện Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô BKS: 15K1-35734 chở phía sau là Nguyễn Bá Q có biểu hiện nghi vấn cất giữ trái phép chất ma túy tại khu vực trước cửa nhà số 01 Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân, Hải Phòng. Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra, Q đã thả từ tay phải xuống đất ngay cạnh chân phải 01 gói giấy nhỏ màu trắng kích thước 0,5cm x 2cm, bên trong có chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy. Tổ công tác đã đã tiến hành thu giữ 01 gói giấy màu trắng chứa chất bột màu trắng; thu giữ của T 01 xe mô tô BKS: 15K1-35734, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu đen xám, 01 điện thoại nhãn hiệu Mastel màu đỏ đen, số tiền 2.200.000 đồng và đưa T, Q về trụ sở công an phường lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Bản Kết luận giám định số 708/KLGĐ ngày 30/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng chứa trong 01 gói giấy thu giữ của Nguyễn Bá Q và Nguyễn Văn T có khối lượng 0,2983 gam, là loại heroine.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Bá Q và Nguyễn Văn T cùng khai nhận: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 27/12/2018, Q và T ngồi uống nước tại khu vực ngã ba Bệnh viện Việt Tiệp thì gặp một người nam giới (không rõ lai lịch) hỏi Q có mua ma túy không, Q bảo chỉ còn 100.000 đồng, thấy thế T góp thêm 100.000 đồng đưa cho Q. Q đưa cả 200.000 đồng cho người nam giới này nhờ mua hộ ma túy để Q và T cùng sử dụng. Q bảo T ngồi chờ còn Q đi theo nam giới đến cuối ngõ 380 Tô Hiệu, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, đến đây Q đứng đợi bên ngoài còn nam giới đi đâu không rõ. Một lúc sau người nam giới quay lại rồi cả hai đi ra ngã ba Bệnh viện Việt Tiệp, lúc này người nam giới đưa cho Q 01 gói giấy màu trắng, Q mở gói giấy ra lấy một ít Heroine cho người nam giới để trả công rồi gói lại như cũ. Sau đó Q đi bộ ra chỗ T và bảo “thôi đi về”, T hiểu là đã mua được ma túy. T chở Q phía sau, Q cầm gói ma túy ở lòng bàn tay phải, cả hai đang đi tìm nơi để sử dụng thì bị phát hiện kiểm tra bắt quả tang như nêu trên .

Bản Cáo trạng số 66/CT-VKS ngày 03/4/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng đã truy tố các bị cáo Nguyễn Bá Q và Nguyễn Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, các bị cáo Nguyễn Bá Q và Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung trên, phù hợp với tang vật chứng thu giữ và kết luận giám định cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 5; Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Bá Q với mức án từ 24 tháng đến 30 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy";

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Văn T với mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy";

Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền do các bị cáo không có công việc, không có thu nhập ổn định và không có tài sản riêng.

Đối với đối tượng bán ma túy cho các bị cáo ngoài lời khai của các bị cáo không có tài liệu gì khác để xác định người bán ma túy cho các bị cáo nên không đề nghị HĐXX giải quyết.

Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng số ma túy được hoàn lại sau giám định.

Trả lại bị cáo Nguyễn Văn T01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone6 Plus màu đen xám; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu đỏ đen và số tiền 2.200.000 đồng nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án phần án phí.

Đối với chiếc xe máy BKS 15 K1-35734 thu giữ của T, qua điều tra xác minh là tài sản của chị Bùi Thị P (vợ T), Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho chị P nên không đề nghị HĐXX giải quyết.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp -Về tội danh:

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau và phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang; vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét công khai tại phiên tòa thể hiện: Khoảng17 giờ 00 phút ngày 27/12/2018 Nguyễn Bá Q và Nguyễn Văn T đã cùng nhau thực hiện hành vi tàng trữ 0,2983 gam heroine với mục đích để cùng sử dụng và bị bắt tại trước cửa nhà số 01 Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng nên đủ cơ sở kết luận các bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà Nước về chất biệt dược mà còn xâm phạm đến trật tự trị an xã hội nên cần xử các bị cáo một mức án nghiêm bắt cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục, cải tạo đối với các bị cáo và cũng là tạo điều kiện cho các bị cáo cai nghiện ma túy.

[4] Về vai trò và nhân thân của các bị cáo: Vụ án thuộc trường hợp có đồng phạm, trong đó bị cáo Q là người chủ động giao dịch và trực tiếp mua ma túy, bị cáo T là người hưởng ứng góp tiền cùng Q mua ma túy để cả hai cùng sử dụng. Đồng thời về nhân thân bị cáo Nguyễn Văn T chưa tiền án, tiền sự; bị cáo Nguyễn Bá Q có 03 tiền án mặc dù đã được xóa án tích. Qua đó HĐXX xét thấy cần xử bị cáo Q mức án cao hơn bị cáo T mới phù hợp với nhân thân, tính chất và mức độ phạm tội của các bị cáo.

- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo nên HĐXX cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo Nguyễn Bá Q và Nguyễn Văn T không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: Vật chứng của vụ án là số ma túy còn lại sau giám định đã được niêm phong trong phong bì, xét đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

[9] Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone6Plus màu đen xám; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu đỏ đen và số tiền 2.200.000 đồng thu giữ của Nguyễn Văn Tuyến, xét đây là tài sản cá nhân của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ số tiền để đảm bảo thi hành án phần án phí.

[10] Đối với chiếc xe máy BKS 15 K1-35734 thu giữ của Tuyến, Cơ quan điều tra xác minh là tài sản của chị Bùi Thị P (vợ T) và đã trả lại tài sản cho chủ sở hữu nên HĐXX không xét giải quyết.

[11] Đối với đối tượng các bị cáo nhờ mua ma túy ngoài lời khai của các bị cáo không có tài liệu gì khác để xác định người mua ma túy cho các bị cáo nên HĐXX không xét giải quyết.

[12] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Bá Q 24 (hai mươi tư) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 28 tháng 12 năm 2018.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Đăng T 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tình từ ngày tạm giữ 28 tháng 12 năm 2018.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng số ma túy còn lại sau giám định.

Trả lại bị cáo Nguyễn Văn T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone6Plus màu đen xám và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu đỏ đen.

Tạm giữ số tiền 2.200.000 (hai triệu hai trăm nghìn) đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn T để đảm bảo thi hành án phần án phí Hình sự sơ thẩm.

(Theo Biên bản giao nhận tài sản, vật chứng ngày 04/4/2019 giữa Cơ quan Công an Quận Lê Chân và Chi cục Thi hành án dân sự Quận Lê Chân).

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH về án phí, lệ phí Tòa án bị cáo Nguyễn Bá Q và Nguyễn Văn T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Về quyền kháng cáo đối với bản án: Nguyễn Bá Q và Nguyễn Văn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

273
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2019/HS-ST ngày 04/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:71/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:04/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về