Bản án 71/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 71/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Trong ngày 28 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 306/ 2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 150/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị F kim Y, sinh năm 1980 Địa chỉ cư trú: Phòng Q nhà W D2, tổ 3 khu đô thị S, xã S, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa

2. Bị đơn: Anh Lê Anh E, sinh năm 1980. Địa chỉ cư trú: Phòng Q nhà W D2, tổ 3 khu đô thị S, xã S, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội. (vắng mặt lần 2 không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 07/6/2019 và các lời khai tại tòa cũng như tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn là chị F Kim Y trình bày:

Chị kết hôn với anh Lê Anh E trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện V, tỉnh Hải Dương ngày 24/02/2004. Vợ chồng sống hạnh phúc đến đầu năm 2005 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do hai người bất đồng quan điểm, lối sống không phù hợp, thiếu sự tôn trọng nhau, hai người sống ly thân từ tháng 4 năm 2019 đến nay. Đầu tháng 10 năm 2019 chị Y đã thuê nhà ra chỗ ở khác, không tiếp tục sống cùng anh E nữa. Nay chị Y xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị được ly hôn với anh E.

Về con chung: Vợ chồng có 3 con chung là Lê Anh F sinh ngày 29/7/2004, Lê Đức G sinh ngày 12/3/2007 và Lê Đức H sinh ngày 07/8/2015, hiện nay cả ba con chung đang ở với chị Y, khi ly hôn chị xin được nuôi ba con chung và tự nguyện không yêu cầu anh E cấp dưỡng tiền nuôi con chung hàng tháng.

Về tài sản chung: Chị Y không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra chị F Kim Y không có yêu cầu nào khác.

Tòa án đã thực hiện việc cấp tống đạt các văn bản tố tụng cho anh Lê Anh E, cụ thể: thông báo thụ lý vụ án anh E đã nhận trực tiếp, các văn bản tố tụng khác anh E từ chối không nhận và anh E vẫn không có mặt theo yêu cầu của Tòa án.

Tại các buổi công khai chứng cứ và hòa giải bị đơn là anh E vắng mặt không có lý do nên Tòa án không tiến hành hòa giải giữa các đương sự về việc giải quyết vụ án, Tòa án cũng đã tống đạt trực tiếp thông báo kết quả phiên họp công khai chứng cứ nhưng anh E từ chối không nhận thông báo.

Tại phiên tòa hôm nay chị Y vẫn giữ nguyên yêu cầu của mình cụ thể: Về quan hệ hôn nhân chị Y xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án xử cho chị được ly hôn anh E; về con chung vợ chồng có 3 con chung là Lê Anh F sinh ngày 29/7/2004, Lê Đức G sinh ngày 12/3/2007 và Lê Đức H sinh ngày 07/8/2015, hiện nay con chung đang ở với chị nên chị xin được tiếp tục nuôi và không yêu cầu cấp dưỡng; về tài sản chung: chị Y không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa anh E vắng mặt lần hai không có lý do nên Tòa án tiến hành xét xử theo thủ tục vắng mặt bị đơn.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự như xác định đúng quan hệ pháp luật, đúng thẩm quyền, xác định đúng tư cách người tham gia tố tụng, cũng như quá trình thu thập chứng cứ đảm bảo đúng quy định.

Các thành viên Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa có mặt đúng như trong quyết định, tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự tại phiên tòa.

Đi với những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn chấp hành đầy đủ và đúng quy định trong quá trình giải quyết vụ án; bị đơn không chấp hành đầy đủ các quy định về quyền và nghĩa vụ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên tòa.

Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Y xử cho được ly hôn anh E; về con chung giao cho chị Y tiếp tục nuôi dưỡng cháu F, cháu G và cháu H đến khi đủ 18 tuổi, tạm hoãn việc cấp dưỡng tiền nuôi con chung hàng tháng đối với anh E; tài sản chung không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra công khai tại phiên tòa, căn cứ vào ý kiến của nguyên đơn tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên thấy rằng:

[1] Về tố tụng: Bị đơn là anh Lê Anh E đã được cấp tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, tại phiên tòa hôm nay anh E đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo thủ tục vắng mặt bị đơn được quy định tại Điều 227 và 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Xét ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ và đúng với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị F Kim Y kết hôn với anh Lê Anh E trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện V, tỉnh Hải Dương ngày 24/02/2004 nên đây là một hôn nhân hợp pháp. Sau ngày cưới chị Y và anh E đã có thời gian sống hạnh phúc, theo chị Y thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn từ năm 2005, nguyên nhân là do hai người bất đồng quan điểm, lối sống không phù hợp, thiếu sự tôn trọng nhau, hai người sống ly thân từ tháng 4 năm 2019 đến nay. Đầu tháng 10 năm 2019 chị Y không tiếp tục sống cùng anh E nữa và thuê nhà khác ở. Nay chị Y xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án xử cho chị được ly hôn với anh E. Đối với anh E, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho anh Lê Anh E, thông báo thụ lý vụ án anh E đã nhận trực tiếp, các văn bản tố tụng khác anh E từ chối không nhận và anh E không có mặt tại Tòa án và cũng không có ý kiến gì của mình gửi cho Tòa án, do vậy mục đích của anh E không phải mong muốn để vợ chồng về đoàn tụ mà gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Xét thấy mâu thuẫn giữa chị Y và anh E đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên cần chấp nhận yêu cầu của chị Y, xử cho chị Y được ly hôn anh E là phù hợp với ý kiến của Kiểm sát viên cũng như phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ con chung: Chị F Kim Y và anh Lê Anh E có 3 con chung là Lê Anh F sinh ngày 29/7/2004, Lê Đức G sinh ngày 12/3/2007 và Lê Đức H sinh ngày 07/8/2015. Hiện nay các cháu đang ở với chị Y có cuộc sống ổn định, bản thân chị Y có nguyện vọng xin được nuôi cả 03 con chung và tự nguyện không yêu cầu anh E cấp dưỡng tiền nuôi con chung hàng tháng. Xét thấy yêu cầu đó của chị Y là phù hợp nên cần chấp nhận giao cho chị Y được nuôi con chung là cháu F, cháu G và cháu H đến khi trưởng thành, tạm hoãn việc cấp dưỡng tiền nuôi con chung đối với anh E đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi có yêu cầu mới.

[4] Về tài sản chung: Chị F Kim Y không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí sơ thẩm: Chị F Kim Y phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, 58, 81, 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 4 Điều 147, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị F Kim Y được ly hôn anh Lê Anh E.

2/ Về con chung: Xử giao cho chị F Kim Y nuôi dưỡng 03 con chung là Lê Anh F sinh ngày 29/7/2004, Lê Đức G sinh ngày 12/3/2007 và Lê Đức H sinh ngày 07/8/2015, tạm hoãn việc cấp dưỡng tiền nuôi con chung hàng tháng đối với anh E đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có yêu cầu mới.

Không ai được ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung đối với anh E.

3/Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.

4/ Về án phí sơ thẩm: Chị F Kim Y phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ, số tiền 300.000đ mà chị Y đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số AA/2010/0004540 ngày 01/7/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Gia Lâm chuyển thành án phí ly hôn sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn là chị Y, vắng mặt bị đơn là anh Lê Anh E. Báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm đối với nguyên đơn, bị đơn kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:71/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về