Bản án 71/2019/DS-ST ngày 27/11/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 71/2019/DS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 122/2019/TLST-DS ngày 05 tháng 7 năm 2019 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2019/QĐXX-ST ngày 04 tháng 9 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 84/2019/QĐST-DS ngày 11 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị Mộng D. Sinh năm: 1977.

Địa chỉ: Số 05 Lê Quang Hòa, khu SunGroup – Cầu Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hoàng Đăng Ngọc M sinh năm: 1988.

Địa chỉ: Số 79 THT, phường PM, quận ST, thành phố Đà Nẵng (Theo văn bản ủy quyền được chứng thực số 253 ngày 25.10.2019, có mặt)

2. Bị đơn: Huỳnh Thị A - Sinh năm 1953

 Địa chỉ: Số 86 – 90 đường PCT, phường HCI, quận H, thành phố Đà Nẵng. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 12 tháng 6 năm 2019 và bản tự khai ngày 24 tháng 7 năm 2019, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mộng D trình bày: Bà và bà Huỳnh Thị A có quan hệ làm ăn kinh doanh đã khá lâu. Từ năm 2012, Công ty Trường Sơn do bà A làm giám đốc gặp khó khăn về tài chính nên cá nhân bà A có đề nghị vay tiền của bà để xử lý công việc kinh doanh. Bà đã nhiều lần cho bà A mượn tiền với danh nghĩa là giám đốc công ty để tạo cho bà A có vốn làm ăn trong giai đoạn khó khăn này. Bà đã nhiều lần nhắc nhở bà A trả nợ nhưng do tình trạng kinh doanh của bà A khó khăn nên bà không hối thúc bà A trả tiền nữa. Đến ngày 02.10.2013, bà A tiếp tục mượn của bà số tiền 90.000.000 đồng (chín mươi triệu đồng) để trả lương cho nhân viên và chi phí kinh doanh khác, bà A có viết giấy ghi nhận nợ làm căn cứ sau này thanh toán chung với khoản nợ trễ hạn trước đây bà vay với danh nghĩa Công ty TS. Kể từ đó cho đến nay, bà A vẫn chưa thanh toán tiền nợ cho bà mặc dù rất nhiều lần nhắc nhở trực tiếp và điện thoại yêu cầu bà A trả tiền nhưng bà Ân từ chối gặp bà. Nay bà khởi kiện tại Tòa án yêu cầu bà Huỳnh Thị A phải có nghĩa vụ trả cho bà số tiền đã mượn là 90.000.000 đồng.

Tại phiên tòa, ông Hoàng Đăng Ngọc M – đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ông M yêu cầu Tòa án buộc bà Huỳnh Thị A phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền nợ là 90.000.000 đồng cho bà Nguyễn Thị Mộng D, không yêu cầu tính lãi suất.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bà Huỳnh Thị A vắng mặt nên Tòa án không lấy được lời khai và hòa giải về nội dung có tranh chấp trong vụ án.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu phát biểu quan điểm xác định Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án đúng thẩm quyền; quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán thực hiện đầy đủ thủ tục trình tự tố tụng theo quy định của pháp luật; Hội đồng xét xử tuân theo đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng. Bị đơn không thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn trả cho nguyên đơn số tiền gốc 90.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát phát biểu về việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án:

Tranh chấp giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mộng D và bị đơn là bà Huỳnh Thị A là tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Bị đơn có nơi cư trú trên địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a, khoản 1, Điều 35; điểm a, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

[2] Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân quận Hải Châu đã thông báo về việc thụ lý vụ án cho bà Bà Huỳnh Thị A (theo địa chỉ: Số 86-90 PCT, phường HC I, quận HC, thành phố Đà Nẵng), tuy nhiên bà Huỳnh Thị A không còn sinh sống tại địa chỉ nói trên. Qua Biên bản xác minh tại địa phương ngày 05.7.2019 thể hiện, bà Huỳnh Thị A có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ này nhưng tại thời điểm xác minh bà Ân không cư trú tại địa phương. Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng và Giấy triệu tập cho bà A đến Tòa án để lấy lời khai, mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đồng thời, vào các ngày 29, 30, 31 tháng 8 năm 2019, bà Nguyễn Thị Mộng D đã đăng tin thông báo tìm kiếm trên phương tiện thông tin đại chúng gồm: Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân thành phố Đà Nẵng, Báo Thanh Niên và phát sóng trên Trung tâm truyền hình Việt Nam tại Đà Nẵng (TVT8) 03 lần trong 03 ngày liên tiếp theo Thông báo số 346/2019/TB-TA ngày 23.8.2019 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Tuy nhiên, bị đơn - bà Huỳnh Thị A đều vắng mặt và không có lý do gì về việc vắng mặt nên Tòa án không lấy được lời khai và hòa giải về nội dung tranh chấp trong vụ án.

Tại phiên tòa, bị đơn là bà Huỳnh Thị A vắng mặt lần thứ hai không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt bị đơn.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy:

Bà Nguyễn Thị Mộng D yêu cầu bà Huỳnh Thị A phải trả số tiền là 90.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi suất. Hội đồng xét xử nhận thấy, căn cứ vào Giấy mượn, nhận tiền của bà A ký vào ngày 02.10.2013 xác định giữa các bên đã ký kết hợp đồng dân sự về việc vay tài sản với tổng số tiền là 90.000.000 đồng. Trong giấy mượn, nhận tiền này các bên không thỏa thuận thời hạn trả tiền và không thỏa thuận về lãi suất. Đây là hợp đồng vay tài sản không kỳ hạn, không có lãi suất do các bên tự nguyện giao kết, không vi phạm các quy định của pháp luật nên được bảo vệ và đảm bảo thực hiện. Theo đó, các bên tham gia giao dịch phải có nghĩa vụ thực hiện các điều khoản cam kết trong hợp đồng. Sau khi ký Giấy mượn, nhận tiền cho đến nay, bà A chưa trả khoản tiền nào cho bà D mặc dù bà D đã thông báo và trực tiếp đến nhà bà Ân đòi nợ nhiều lần nhưng bà Ân trốn tránh không gặp và vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả số tiền nợ nêu trên. Như vậy, bà A đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ, là người có lỗi trong việc thực hiện hợp đồng vay tài sản nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 463, Điều 466 và 469 Bộ luật dân sự 2015 để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mộng D, buộc bà Huỳnh Thị A có nghĩa vụ trả số tiền 90.000.000 đồng cho bà Nguyễn Thị Mộng D là có căn cứ.

Nguyên đơn không yêu cầu tính lãi nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Vì chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên bị đơn bà Huỳnh Thị A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là: 90.000.000 đồng x 5% = 4.500.000 đồng.

Về chi phí tố tụng khác: Chi phí đăng thông báo tìm kiếm trên phương tiện thông tin đại chúng gồm: Báo Thanh Niên là 450.000 đồng (đã nộp theo Hóa đơn GTGT số 0000049 ngày 27.8.2019), Trung tâm truyền hình Việt Nam tại Đà Nẵng là 1.650.000đ (đã nộp theo Hóa đơn GTGT số 0001534 ngày 27.8.2019) bà Nguyễn Thị Mộng D chịu.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ:

 - Điều 357, 463, 466, 468 và 469 Bộ luật dân sự năm 2015;

- Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; - Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc "Tranh chấp hợp đồng vay tài sản" của bà Nguyễn Thị Mộng D đối với bà Huỳnh Thị A.

Xử:

- Buộc bà Huỳnh Thị A phải trả cho bà Nguyễn Thị Mộng D số tiền 90.000.000 đồng (Chín mươi triệu đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Án phí dân sự sơ thẩm bà Huỳnh Thị A phải chịu 4.500.000 đồng.

Bà Nguyễn Thị Mộng D không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho bà Ân số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 2.250.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 7250 ngày 01 tháng 7 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

Về chi phí tố tụng khác: Chi phí đăng thông báo tìm kiếm trên phương tiện thông tin đại chúng gồm: Báo Thanh Niên là 450.000 đồng (đã nộp theo Hóa đơn GTGT số 0000049 ngày 27.8.2019), Trung tâm truyền hình Việt Nam tại Đà Nẵng là 1.650.000đ (đã nộp theo Hóa đơn GTGT số 0001534 ngày 27.8.2019) bà Nguyễn Thị Mộng D chịu.

Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

356
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2019/DS-ST ngày 27/11/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:71/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về