Bản án 71/2018/HS-ST ngày 15/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 71/2018/HS-ST NGÀY 15/10/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 15 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Việt Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 67/2018/HSST ngày 24 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2018/QĐXXST-HS, ngày 03 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Dương Tiến Kh, sinh năm 1992; nơi cư trú: thôn H, xã T, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 5/12; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Dao; tôn giáo: Không; con ông Dương Quý Th và bà Triệu Thị Nh; co vợ là Triệu Thị Ph và 01 con sinh năm 2014; tiền sự: Không tiền án: tại bản án số 29/2017/HSST ngày 08/5/2017, Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên đã xử phạt bị cáo 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo đã chấp hành xong bản án từ ngày 09/01/2018. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 10/7/2018 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang (có mặt tại phiên toà)

* Người bị hại: Chị Hoàng Thị L, sinh năm 1999 (vắng mặt);

Nơi cư trú: Thôn S, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn.

* Người làm chứng:

1. Bà Hoàng Thị Ng, sinh năm 1950 (vắng mặt);

Nơi cư trú: Thôn N, xã Q, huyện V, tỉnh Bắc Giang.

2. Chị Nguyễn Như Q, sinh năm 1984 (vắng mặt);

Nơi cư trú: Khu I, thị trấn Ph, huyện Q, tỉnh Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 08 giờ ngày 04/7/2018, Dương Tiến Kh mang theo 04 đầu vam phá khóa dài khoảng 05 cm, một đầu mài dẹt, một đầu hình lục giác, 01 tô vít chuôi bằng nhựa màu xanh thẫm, 01 tay công hình chữ „L” và 01 chiếc chìa khóa Việt - Tiệp đón xe khách từ thành phố Th, tỉnh Thái Nguyên đến Khu công nghiệp Đ, huyện V, tỉnh Bắc Giang sau đó bị cáp thuê xe ôm đưa đến khu vực thôn N, xã Q, huyện V, tỉnh Bắc Giang. Đến nơi bị cáo đi bộ để tìm xe mô tô sơ hở thì trộm cắp. Khoảng 18h cùng ngày, khị bị cáo đi bộ đến khu nhà trọ của bà Hoàng Thị Ng, quan sát thấy cổng mở, bên trong sân dựng chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 12H1- 198.48, trên xe có treo 01 mũ bảo hiểm màu xanh của Chị Hoàng Thị L. Quan sát thấy xung quanh không có người, bị cáo đi đến vị trí dựng chiếc xe mô tô thì thấy xe chỉ khóa cổ, không có khóa càng nên bị cáo đã lấy một đầu vam phá khóa lắp vào chiếc tay công hình chữ “L” tra đầu vam vào ổ khóa điện của chiếc xe, vặn theo chiều kim đồng hồ nhưng đầu vam bị cong, không phá được. Bị cáo liền thay bằng một đầu vam phá khóa khác để tiếp tục phá cho đến khi phá được khóa cổ, khóa điện của chiếc xe. Phá được khóa xe, bị cáo cất vam và tay công vào túi quần bên phải đang mặc rồi dắt xe ra ngoài đường, nổ máy điều khiển xe đi về thành phố B, tỉnh Bắc Ninh tìm nơi tiêu thụ. Khi đi đến đoạn đường vắng thuộc địa phận phường V, thành phố B bị cáo dừng xe lại, dùng vam phá khóa mở cốp xe thì thấy bên trong có 01 chiếc tô vít chuôi màu đen, 01 chiếc tuýp để vặn bugi và 01 áo mưa nên đã dùng chiếc tô vít và chiếc tuýp này tháo biển kiểm soát cất vào cốp xe rồi đút tô vít vào túi quần bên phải đang mặc. Sau đó, bị cáo tháo gương chiếu hậu bên trái xe và vứt bỏ cùng chiếc tuýp vặn bugi, áo mưa và chiếc mũ bảo hiểm xuống ven đường rồi tiếp tục đi vào thành phố B. Đến khoảng 13 giờ 00 phút ngày 09/7/2018, bị cáo điều khiển xe đi đến cửa hàng bán đồ điện của chị Nguyễn Như Q, thấy trước cửa có để một máy mài nên đi vào xin chị Q mài nhờ tô vít. Tại đây, bị cáo lấy một chiếc đầu vam phá khóa ra mài thì chị Q phát hiện, tri hô nên bị cáo ra khỏi cửa hàng của chị Q được khoảng 500 m thì bị người dân bắt giữ giao Công an huyện Q, tỉnh Bắc Ninh giải quyết. Cơ quan Công an huyện Q đã thu giữ những vật chứng, gồm: 01 chiếc xe mô tô, trong cốp xe có biển kiểm soát 12H1-198.48, 04 đầu vam phá khóa, 02 tô vít, 01 tay công hình chữ „L”, 01 chìa khóa Việt - Tiệp, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen và số tiền 160.000 đồng, bàn giao cho Công an huyện V giải quyết.

Ngày 31/8/2018, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện V kết luận: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 12H1-198.48, trị giá 18.400.000 VNĐ.

Với nội dung trên, tại bản cáo trạng số 72/KSĐT ngày 21/9/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã truy tố bị cáo Dương Tiến Kh về tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình giống như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V truy tố.

Sau phần xét hỏi, tại phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V phát biểu lời luận tội đối với bị cáo, phân tích tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi mà bị cáo đã thực hiện, giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử, tuyên bố bị cáo Dương Tiến Kh phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt bị cáo ơng Tiến Kh từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/7/2018. Miễn hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Ngoài ra còn đề nghị tuyên xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định.

Bị cáo đồng ý với luận tội của Kiểm sát viên, không có ý kiến tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo về thời gian, địa điểm, diễn biến hành vi phạm tội, tài sản chiếm đoạt, thủ đoạn chiếm đoạt tài sản, công cụ thực hiện, quá trình đi tiêu thụ tài sản hoàn toàn phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Có đủ căn cứ xác định: Khoảng 18 giờ ngày 04/7/2018, tại sân nhà trọ của bà Hoàng Thị Ng ở thôn N, xã Q, huyện V, tỉnh Bắc Giang, bị cáo Dương Tiến Kh đã có hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 12H1-198.48, trị giá 18.400.000 đồng của Chị Hoàng Thị L.

[3] Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ; khi thực hiện hành vi bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và thực hiện với lỗi cố ý. Hành vi nêu trên của bị cáo Dương Tiến Kh đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng quy định của pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bản thân bị cáo đã có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, nay lại tái phạm. Do đó cần áp dụng hình phạt tù mới tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và có tác dụng răn đe, giáo dục riêng đối với bản thân các bị cáo cũng như có tác dụng đấu tranh phòng chống loại tội phạm này.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào: Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích nay lại phạm tội. Viện kiểm sát đề nghị áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự là phù hợp, cần chấp nhận.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo ra đầu thú. Viện kiểm sát đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự là phù hợp cần chấp nhận.

[5] Về hình phạt: Đề xuất của đại diện Viện kiểm sát về tội về hình phạt là phù hợp cần được chấp nhận.

Bị cáo thuộc hộ cận nghèo, đề xuất của đại diện Viện kiểm sát về việc miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo là phù hợp cần được chấp nhận.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không có yêu cầu bồi thường nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[7] Về xử lý vật chứng: Tiền và điện thoại thu giữ cảu bị cáo không liên quan đến tội phạm, đề xuất của đại diện Viện kiểm sát về việc trả lại cho bị cáo những tài sản này là phù hợp cần được chấp nhận.

01 vam phá khóa, 01 chìa khóa Việt Tiệp, 01 tay công hình chữ “L”, 01 tô vít chuôi mà đen, 01 tô vít chuôi màu xanh, 03 đầu vam phá khóa là công cụ phạm tội và đều không còn giá trị. Đề xuất của đại diện Viện kiểm sát về việc tịch thu tiêu hủy số vật chứng này là phù hợp cần được chấp nhận.

Bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên được miễn toàn bộ án phí theo quy định.

Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Dương Tiến Kh phạm tội “trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Dương Tiến Kh 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/7/2018.

Căn cứ vào Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Trả lại bị cáo số tiền 160.000đ và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen.

Tch thu tiêu hủy: 01 vam phá khóa, 01 chìa khóa Việt Tiệp, 01 tay công hình chữ “L”, 01 tô vít chuôi mà đen, 01 tô vít chuôi màu xanh, 03 đầu vam phá khóa là công cụ phạm tội và đều không còn giá trị cần tịch thu tiêu hủy.

Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 nghị quyết Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Dương Tiến Kh.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Án xử công khai sơ thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2018/HS-ST ngày 15/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:71/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về