Bản án 71/2017/HN-ST ngày 29/08/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 71/2017/HN-ST NGÀY 29/08/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 29 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân Tp.Long Xuyên, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân thụ lý số: 161/2017/TLST–DS ngày 17/4/2017 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2017/QĐXXST- HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2017 và quyết định hoãn phiên tòa số: 55/2017/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 8 năm 2017, giữa các đương sự:

1. Nguyên đ ơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm 1980. (có mặt)

Địa chỉ: khóm 6, phường B, Tp. H, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Anh Lâm Ngọc T, sinh năm 1975. (vắng mặt)

Địa chỉ: khóm 6, phường B, Tp. H, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 24/3/2017, có bổ sung ngày 12/4/2017, cùng các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ngọc T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lâm Ngọc T do quen biết, tìm hiểu sau đó tự nguyện tiến đến hôn nhân vào năm 2000 và đăng ký kết hôn ngày 07/9/2006 tại UBND phường Bình Đức, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Hôn nhân lần thứ nhất của cả hai. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh T thường xuyên bỏ nhà đi và không lo cho gia đình, không làm tròn trách nhiệm của một người chồng, chị đã khuyên ngăn nhưng anh T vẫn không sửa đổi dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên anh chị đã sống ly thân từ cuối năm 2016. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh T.

Về quan hệ con chung: Chị và anh T có 02 (hai) con chung tên Lâm TiểuC, sinh ngày 06/11/2002 và Lâm Ngọc Mỹ T, sinh ngày 24/5/2012. Khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung  và yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi hai con chung 1.000.000đ/tháng/02 con chung (Một triệu đồng/tháng/02 con chung). Tại phiên tòa, chị thay đổi ý kiến yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi hai con chung theo quy định pháp luật.

Về quan hệ tài sản chung: Chị và anh T không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về quan hệ nợ chung: Chị và anh T sẽ tự thỏa thuận về nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh Lâm Ngọc T không gửi tự khai trình bày ý kiến cho Tòa án và vắng mặt suốt trong quá trình giải  quyết đối với vụ án nên không có ý kiến trình bày.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp.Long Xuyên có ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử: đúng theo qui định của pháp luật.

- Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo đúng qui định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ: đã được Tòa án nhiều lần triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do.

- Về hướng giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Ngọc T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

1 Về thủ tục tố tụng:

Bị đơn anh Lâm Ngọc T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ những vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông T.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ngọc T và anh Lâm Ngọc T kết hôn lần thứ nhất trên cơ sở tự nguyện vào năm 2000 và đăng ký kết hôn ngày 07/9/2006 tại UBND phường Bình Đức, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang, nên được pháp luật công nhận là vợ chồng theo qui định tại Điều 8 và Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Nay vợ chồng chị T và anh T phát sinh mâu thuẫn, chị T xin ly hôn nên Tòa án thụ lý giải quyết là phù hợp các qui định của pháp luật tại khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

Chị T cho rằng sau khi kết hôn anh, chị chung sống hạnh phúc đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh T thường xuyên bỏ nhà đi và không lo cho gia đình, không làm tròn trách nhiệm của một người chồng, chị đã khuyên ngăn nhưng anh T vẫn không sửa đổi dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên anh chị đã sống ly thân từ cuối năm 2016. Nay nhận thấy không thể hàn gắn nên chị yêu cầu Tòa án cho chị được ly hôn với anh T.

Qua trình bày của chị T, Hội đồng xét xử xét thấy chị T và anh T phát sinh mâu thuẫn năm 2010 và đã ly thân từ cuối năm 2016. Tại phiên tòa hôm nay, chị T vẫn kiên quyết xin ly hôn vì không còn tình cảm vợ chồng với anh T; cũng như việc anh T không thăm nom hai con hay liên lạc với chị để vợ chồng đoàn tụ. Do đó, cho thấy trong suốt thời gian dài qua, chị T và anh T không tạo điều kiện thăm nom, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Trong quá trình Tòa án xem xét giải quyết vụ án, anh T không cung cấp ý kiến và không đến Tòa án tham dự phiên hòa giải, phiên tòa thể hiện chưa có sự quan tâm đối với yêu cầu ly hôn của chị T. Điều đó chứng tỏ tình trạng hôn nhân của anh chị đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nếu duy trì cuộc hôn nhân này cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T.

[3] Về quan hệ con chung: Chị T trình bày, chị và anh T có hai con chung tên Lâm Tiểu C, sinh ngày 06/11/2002 và Lâm Ngọc Mỹ T, sinh ngày 24/5/2012. Khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng hai cháuvà yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi hai con chung theo quy định pháp luật.

Hội đồng xét xử xét thấy, hai con chung hiện do chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc; chị T có công việc, có thu nhập và sắp xếp được thời gian chăm sóc cháu C và cháu T. Đồng thời, cháu C cũng có nguyện vọng được sống cùng với mẹ (Tờ trình bày ý kiến nguyện vọng con chung ngày 14/4/2017), và cháu T còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ. Do đó, xét về quyền lợi mọi mặt của con chung và để ổn định về sinh hoạt, mặt tâm lý cho con chung, Hội đồng xét xử xét thấy việc chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng hai con chung là có cơ sở chấp nhận.

Đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của chị T: Theo qui định pháp luật thì người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chưa thành niên. Do đó, việc chị T yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi hai con chung số tiền 1.000.000đ/tháng và nay tại phiên tòa chị thay đổi yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi hai con chung theo quy định pháp luật là không vượt phạm vi khởi kiện ban đầu và không trái với qui định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Anh T phải có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi hai con chung số tiền 1.300.000đ/tháng/02 con chung (1/2 tháng lương tối thiểu 1.300.000đ/con chung), kể từ khi bản án có hiệu lực cho đến khi hai con chung trưởng thành (đủ 18 tuổi).

Mức cấp dưỡng nuôi con có thể được thay đổi theo từng thời điểm do pháp luật quy định. Chị Nguyễn Thị Ngọc T phải tạo điều kiện cho anh Lâm Ngọc T thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Việc nuôi con không cố định.

[4] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Theo chị T thì chị và anh T không có tài sản chung; còn nợ chung chị và anh T tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết. Nếu sau này chị T và anh T có phát sinh tranh chấp về tài sản chung, nợ chung sẽ được Tòa án thụ lý và giải quyết bằng vụ án khác.

[5] Về án phí sơ thẩm:

Chị Nguyễn Thị Ngọc T phải nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0015348 ngày 12/4/2017 của Chi cục thi hành án dân sự Tp.Long Xuyên.

Anh Lâm Ngọc T phải nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên,

Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 1 Điều 244; khoản 1 Điều 273; Điều 278 và khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 110, Điều 116, Điều 117 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử vắng mặt anh Lâm Ngọc T.

Tuyên xử:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Ngọc T được ly hôn với anh Lâm Ngọc T.

[2] Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Thị Ngọc T và anh Lâm Ngọc T có hai con chung tên Lâm Tiểu C, sinh ngày 06/11/2002 và Lâm Ngọc Mỹ T, sinh ngày 24/5/2012

Chị Nguyễn Thị Ngọc T được tiếp tục nuôi dưỡng hai con chung tên Lâm Tiểu C, sinh ngày 06/11/2002 và Lâm Ngọc Mỹ T, sinh ngày 24/5/2012. Anh Lâm Ngọc T có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi hai con chung số tiền 1.300.000đ/tháng/02 con chung (1/2 tháng lương tối thiểu 1.300.000đ/con chung), kể từ khi bản án có hiệu lực cho đến khi hai con chung trưởng thành (đủ 18 tuổi).

Mức cấp dưỡng nuôi con có thể được thay đổi theo từng thời điểm do pháp luật quy định. 

Chị Nguyễn Thị Ngọc T phải tạo điều kiện cho anh Lâm Ngọc T thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Việc nuôi con không cố định.

[3] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[4] Về án phí sơ thẩm:

Chị Nguyễn Thị Ngọc T phải nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0015348 ngày 12/4/2017 của Chi cục thi hành án dân sự Tp.Long Xuyên.

Anh Lâm Ngọc T phải nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc cấp dưỡng nuôi con.

[5] Chị Nguyễn Thị Ngọc T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Lâm Ngọc T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2017/HN-ST ngày 29/08/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:71/2017/HN-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về