Bản án 709/2019/HC-PT ngày 01/10/2019 về khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai đối với trường hợp thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ và cưỡng chế thu hồi đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 709/2019/HC-PT NGÀY 01/10/2019 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH, HÀNH VI HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI ĐỐI VỚI TRƯỜNG HỢP THU HỒI ĐẤT, BỒI THƯỜNG HỖ TRỢ VÀ CƯỠNG CHẾ THU HỒI ĐẤT

Ngày 01 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số: 02/2018/TLPT-HC ngày 04 tháng 01 năm 2018 về “Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai đối với trường hợp thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ và cưỡng chế thu hồi đất”.

Do Bản án hành chính sơ thẩm số 36/2017/HC-ST ngày 17/11/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1889/2019/QĐPT-HC ngày 20 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Ông Hoàng Xuân Ch, sinh năm 1965.

Đa chỉ: khu phố 4, phường P, thành phố P1, tỉnh Ninh Thuận.

Đa chỉ liên lạc: đường T, phường Đ, thành phố P1, tỉnh Ninh Thuận.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Cẩm Q, sinh năm 1975. (có mặt) Địa chỉ: đường 33, phường B, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người bị kiện:

1/. Ủy ban nhân dân thành phố P1, tỉnh Ninh Thuận. (có văn bản xin xét xử vắng mặt)

2/. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố P1, tỉnh Ninh Thuận. (có văn bản xin xét xử vắng mặt)

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Nguyễn H – Phó Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố P1. (có mặt)

- Người kháng cáo: Ông Hoàng Xuân Ch.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Người khởi kiện ông Hoàng Xuân Ch có ông Lê Cẩm Q đại diện trình bày:Năm 2014 ông Hoàng Xuân Ch nhận được Quyết định số 595/QĐ- UBND ngày 29/5/2014 của UBND thành phố P1 về việc thu hồi 484m2 đất có nhà ở (thuộc thửa đất số 7e tờ bản đồ địa chính số 2), để bồi thường giải phóng mặt bằng thực hiện dự án Quy hoạch khu đô thị mới Đ thành phố P1.

Việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Ch được thực hiện tại Quyết định số 635/QĐ-UBND ngày 29/5/2014 của UBND thành phố P1 với tổng số tiền bồi thường và hỗ trợ là 196.909.200 đồng; với giá bồi thường thu hồi đất là 70.000đ/m2 cho đất trồng cây lâu năm có nhà ở tại đô thị và không hỗ trợ tái định cư theo quy định của pháp luật.

Ông Ch không đồng ý với Quyết định số 635/QĐ-UBND ngày 29/5/2014 của UBND thành phố P1 nên đã làm đơn khiếu nại đến UBND thành phố P1 nhưng chưa được UBND thành phố giải quyết, ông Ch cũng chưa nhận tiền bồi thường và chưa được nhận hỗ trợ tái định cư của người có đất bị thu hồi. Như vậy là xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Ch, vi phạm pháp luật được quy định tại các Điều 30, khoản 1 Điều 32, điểm a khoản 5 Điều 71 và Điều 83 của Luật đất đai năm 2013; Điều 13 Thông tư 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài nguyên Môi trường và các Điều 19, Điều 20, Điều 22, Điều 23, Điều 24, Điều 25 Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chỉnh phủ quy định chi tiết về bồi thường, hồ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

Vì vậy, ông Hoàng Xuân Ch khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Hủy quyết định số 1975/QĐ-UBND ngày 29/5/2017 của Chủ tịch UBND thành phố P1 về việc cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất;

- Hy quyết định số 595/QĐ-UBND ngày 29/5/2014 của UBND thành phổ P1 về việc thu hồi đất do hộ ông Hoàng Xuân Ch sử dụng tại phường Th để bồi thường giải phóng mặt bằng thực hiện dự án Quy hoạch khu đô thị mới Đ thành phố P1 (khu KI);

- Hy quyết định số 635/QĐ-UBND ngày 29/5/2014 của UBND thành phố P1 về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho hộ ông Hoàng Xuân Ch khi Nhà nựớc thu hồi đất để thực hiện dự án Quy hoạch khu đô thị mới Đ thành phố P1 (khu KI);

- Buộc UBND thành phố P1 bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi thu hồi đất ở đô thị của hộ ông Hoàng Xuân Ch đúng quy định của pháp luật tại thời điểm 2017.

Người bị kiện – UBND thành phố P1, do người đại diện ủy quyền trình bày:Để thực hiện Quy hoạch Khu đô thị mới Đ (Khu Kl), Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã ban hành Thông báo số 43/TB-UBND ngày 14/6/; Thông báo số 53/TB- UBND ngày 1/7/2010; Thông báo số 21/TB-UBND ngày 14/3/2011 đều về việc thu hồi đất để bồi thường, giải phóng mặt bằng.

Trên cơ sở đề nghị của Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố P1 tại Tờ trình số 797/TTr - TNMT ngày 15/5/2014 ngày 29/5/2014, Ủy ban nhân dân thành phố P1 đã ban hành Quyết định số 595/QĐ-UBND về việc thu hồi đất của hộ ông Hoàng Xuân Ch (thửa đất số 7e, tờ bản đồ địa chính số 2, diện tích 484m2 phưng Th) thực hiện dự án nêu trên. Việc thu hồi đất được thực hiện theo quy định tại Điều 60 Quyết định 2380/2010/QĐ-UBND ngày 21/12/2010 của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận về thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất; điểm a khoản 1 Điều 28 Nghị định số 69/NĐ-CP ngày 13/8/2009 về Áp dụng thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất đối với dự án đầu tư.

Ngày 29/5/2014, Ủy ban nhân dân thành phố P1 đã ban hành Quyết định số 618/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án chi tiết về bồi thường hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện dự án Quy hoạch khu đô thị mới Đ thành phố.

Ngày 29/5/2014, Ủy ban nhân dân thành phố P1 ban hành Quyết định số 635/QĐ-UBND về việc bồi thường hỗ trợ và tái định cư cho hộ ông Hoàng Xuân Ch, với tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ là 196.909.200 đồng (trong đó bồi thường về đất là 33.880.000 đồng; các khoản hỗ trợ là 144.619.200 đồng, bồi thường hoa màu 3.350.000 đồng).

Ngày 15/12/2015, Ủy ban nhân dân thành phố ban hành Quyết định số 2484/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ bổ sung vật kiến trúc cho hộ ông Hoàng Xuân Ch, với số tiền bồi thường bổ sung là: 27.590.000 đồng.

Việc Ủy ban nhân dân thành phố ban hành Quyết định số 635/QĐ - UBND ngày 29/5/2014 là phù hợp theo quy định điểm b khoản 4 Điều 58, Điều 63 Quyết định 2380/2010/QĐ-UBND ngày 21/12/2010 của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận; Quyết định số 33/QĐ - UBND ngày 23/02/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận quy định giá đất ở trung bình tại khu vực thực hiện dự án Quy hoạch khu đô thị mới Đ thành phố P1 là 882.000đồng/m2; Các bảng giá nhà ở công trình, vật kiến trúc, giá hoa màu tại thời điểm 2012 cụ thể là tại các Quyết định số 33/2011/QĐ - UBND ngày 15/8/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận quy định về giá vật kiến trúc, Quyết định số 204/QĐ - UBND ngày 04/3/2010 của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận quy định về giá hoa màu; Các điều khoản về hỗ trợ khác của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận quy định tại Quyết định số 2380/2010/QĐ - UBND ngày 21/12/2010.

Do hộ ông Ch không giao mặt bằng, Chủ tịch UBND thành phố P1 đã ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất số 1975/QĐ-UBND ngày 29/5/2017 căn cứ theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 69, khoản 2 Điều 71 Luật đất đai 2013;

Từ các nội dung nêu trên, đối chiếu với các quy định hiện hành của Nhà nước về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất, Ủy ban nhân dân thành phố, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố đã ban hành các Quyết định số 595/QĐ-UBND ngày 29/5/2014, Quyết định số 635/QĐ-UBND ngày 29/5/2014, Quyết định số 1975/QĐ-UBND ngày 29/5/2017 là đúng theo trình tự quy định của pháp luật. Do đó, đề nghị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Xuân Ch.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 36/2017/HC-ST ngày 17 tháng 11 năm 2017, Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32, Điều 164, điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 194, Điều 206, Điều 213 Luật tố tụng hành chính;

Căn cứ khoản 1 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thuờng vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Xuân Ch về việc:

- Hy Quyết định số 1975/QĐ-UBND ngày 29/5/2017 của Chủ tịch UBND thành phố P1 về việc cưỡng chế thu hồi đất;

- Hy Quyết định số 595/QĐ-UBND ngày 29/5/2014 của UBND thành phố P1 về việc thu hồi đất;

- Hy Quyết định số 635/QĐ-UBND ngày 29/5/2014 của UBND thành phố P1 về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;

- Buộc UBND thành phố P1 bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi thu hồi đất ở đô thị của ông Hoàng Xuân Ch đúng quy định pháp luật tại thời điểm 2017.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo vụ án theo luật định.

Ngày 30/11/2017, ông Hoàng Xuân Ch có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của ông Ch vẫn giữ yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Ch.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện trình bày: UBND thành phố P1 đã thu hồi đất và bồi thường đúng trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật. Tòa án sơ thẩm xét xử đúng pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

- Về tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự đã tuân thủ đúng các quy định của Luật tố tụng hành chính.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Ch, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét thẩm tra, kết quả hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của ông Hoàng Xuân Ch nộp trong hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Ông Ch kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông về việc đề nghị hủy Quyết định số 1975/QĐ-UBND ngày 29/5/2017 của Chủ tịch UBND thành phố P1 về việc cưỡng chế thu hồi đất; Hủy Quyết định số 595/QĐ-UBND ngày 29/5/2014 của UBND thành phố P1 về việc thu hồi đất; Hủy Quyết định số 635/QĐ-UBND ngày 29/5/2014 của UBND thành phố P1 về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Buộc UBND thành phố P1 bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi thu hồi đất ở đô thị của ông Hoàng Xuân Ch đúng quy định pháp luật tại thời điểm 2017.

[2] Tại phiên tòa người bị kiện vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 225 Luật tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt người bị kiện.

[3] Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận thụ lý, giải quyết yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Xuân Ch theo thủ tục sơ thẩm là đúng thẩm quyền và trong thời hiệu khởi kiện.

[4] Về yêu cầu hủy Quyết định số 595/QĐ-UBND ngày 29/5/2014 của UBND thành phố P1 về việc thu hồi đất của hộ ông Hoàng Xuân Ch để bồi thường, giải phóng mặt bằng thực hiện dự án Quy hoạch khu đô thị mới Đ thành phố P1 (viết tắt là Quyết định số 595):

Quyết định số 595/QĐ-UBND do UBND thành phố P1 ban hành là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 2 Điều 44 Luật Đất đai năm 2003. Do ngày 09/3/2010, UBND tỉnh Ninh Thuận đã ban hành Quyết định 482/QĐ-UBND về việc phê duyệt đồ án quy hoạch chi tiết xây dựng Khu đô thị mới Đ (Khu Kl) thành phố P1 và ngày 26/3/2010, UBND tỉnh Ninh Thuận đã ban hành Quyết định 297/QĐ-UBND về việc phê duyệt hồ sơ đề xuất và chấp thuận chủ đầu tư dự án Khu đô thị mới Đ (Khu Kl) thành phố P1, nên UBND thành phố P1 ban hành Quyết định số 595/QĐ-UBND ngày 29/5/2014 về việc thu hồi hồi đất của hộ ông Hoàng Xuân Ch là có căn cứ, đúng trình tự thủ tục theo quy định tại Điều 39, 40 của Luật đất đai năm 2003; Điểm b khoản 2 Điều 34 Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ; Khoản 2 Điều 60 Quyết định 2380/2010/QĐ-UBND ngày 21/12/2010 của UBND tỉnh Ninh Thuận. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Xuân Ch về việc hủy quyết định này là có căn cứ.

[5] Về Quyết định số 635/QĐ-UBND ngày 29/5/2014 của UBND thành phố P1 về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho hộ ông Hoàng Xuân Ch:

Quyết định số 635/QĐ-UBND được ban hành đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 43 Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ. Ngày 23/3/2011, UBND thành phố P1 ban hành Quyết định số 1584/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án chi tiết về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án quy hoạch khu đô thị mới Đ thành phố P1 (Khu kl). Trên cơ sở đã có quyết định thu hồi đất, việc UBND thành phố P1 ban hành Quyết định số 635/QĐ-UBND là đúng trình tự, thủ tục.

Tại bản xác nhận nguồn gốc sử dụng đất của UBND phường Th thể hiện diện tích đất bị thu hồi của ông Hoàng Xuân Ch thuộc Thửa đất 7a, tờ bản đồ số 2, diện tích 484 m2, loại đất HNK đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông Ch đang sử dụng ổn định, không tranh chấp, không lấn chiếm nên đủ điều kiện được bồi thường giá trị quyền sử dụng đất.

Hộ ông Hoàng Xuân Ch bị thu hồi đất nông nghiệp nên được bồi thường, hỗ trợ theo giá đất nông nghiệp tại địa bàn thành phố P1 với đơn giá là 70.000 đồng/m2 theo Quyết định số 92/2013/QĐ-UBND của UBND tỉnh Ninh Thuận. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2 Điều 30 Quyết định 2380/2010/QĐ-UBND ngày 21/12/2010 của UBND tỉnh Ninh Thuận thì ông Ch được hỗ trợ bằng 30% giá đất ở trung bình của khu vực có đất thu hồi. Theo Quyết định số 80/QĐ- UBND ngày 22/4/2013 của UBND tỉnh Ninh Thuận quy định giá đất ở trung bình của khu vực đất thu hồi là 996.000 đồng/m2. Vì vậy, ngoài việc được bồi thường theo giá đất nông nghiệp 70.000 đồng/m2, hộ ông Ch còn được hỗ trợ 30% giá đất ở trung bình của khu vực có đất thu hồi theo quy định trong bảng giá đất là 298.800 đồng/m2.

Căn cứ Điều 42 Quyết định 2380/QĐ-UBND ngày 21/12/2010 của UBND tỉnh Ninh Thuận và Thông tư 14/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường và theo quy định của Luật đất đai 2013 thì hộ ông Hoàng Xuân Ch không thuộc trường hợp được hỗ trợ tái định cư khi thu hồi đất. Vì vậy, yêu cầu của ông Ch được hỗ trợ tái định cư là không có cơ sở xem xét.

Do đó, Quyết định số 635 ngày 29/5/2014 của UBND thành phố P1 có nội dung phù hợp với quy định của pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Xuân Ch về việc hủy quyết định này là phù hợp.

[6] Về Quyết định số 1975/QĐ-UBND ngày 29/5/2017 của Chủ tịch UBND thành phố P1 về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với hộ ông Hoàng Xuân Ch, quyết định này được ban hành đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 71 Luật đất đai năm 2013.

Sau khi có quyết định thu hồi đất, UBND thành phố P1, UBND phường Th đã nhiều lần vận động, thuyết phục hộ gia đình ông Ch bàn giao mặt bằng để thực hiện dự án nhưng gia đình ông Ch không chấp hành, không có mặt khi được mời làm việc. Do vậy, Chủ tịch UBND thành phố P1 ban hành Quyết định số 1975/QĐ-UBND là phù hợp với Khoản 2 Điều 71 Luật đất đai năm 2013.

[7] Trên cơ sở đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Xuân Ch là có căn cứ, đúng pháp luật. Do vậy, không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Ch nên cần giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[8] Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Hoàng Xuân Ch phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 241, Điều 242 Luật tố tụng hành chính;

Điều 32, Điều 33, Điều 34 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, giữ quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Hoàng Xuân Ch. Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 36/2017/HCST ngày 17/11/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận.

Tuyên xử:

1. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Xuân Ch về việc:

- Hy Quyết định số 1975/QĐ-UBND ngày 29/5/2017 của Chủ tịch UBND thành phố P1 về việc cưỡng chế thu hồi đất;

- Hy Quyết định số 595/QĐ-UBND ngày 29/5/2014 của UBND thành phố P1 về việc thu hồi đất;

- Hy Quyết định số 635/QĐ-UBND ngày 29/5/2014 của UBND thành phố P1 về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;

- Buộc UBND thành phố P1 bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi thu hồi đất ở đô thị của ông Hoàng Xuân Ch đúng quy định pháp luật tại thời điểm 2017.

2. Về án phí:

Ông Hoàng Xuân Ch phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo Biên lai số 0013774 ngày 15/6/2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Thuận.

Ông Hoàng Xuân Ch phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính phúc thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo Biên lai số 0013934 ngày 13/12/2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Thuận.

3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

439
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 709/2019/HC-PT ngày 01/10/2019 về khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai đối với trường hợp thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ và cưỡng chế thu hồi đất

Số hiệu:709/2019/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 01/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về