Bản án 707/2019/HS-PT ngày 19/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 707/2019/HS-PT NGÀY 19/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 420/2019/TLPT-HS ngày 01 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo Lê Thị Thanh T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 213/2019/HS-ST ngày 25/06/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo kháng cáo:

Lê Thị Thanh T; giới tính: Nữ; sinh năm: 1980 tại Bình Thuận; nơi đăng ký HKTT: 145/79 ấp 5, xã M1, huyện M2, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: tổ 7, ấp 5, xã M3, huyện M4, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Thanh T1 và bà Lê Thị C; hoàn cảnh gia đình: có chồng (đã ly hôn) và 03 con, lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 24/01/2007 bị công an huyện M2, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc. Bị bắt, tạm giam từ ngày 08/11/2018 (có mặt).

- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Luật sư Đỗ Hải B, Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thông qua bạn bè ngoài xã hội, Lê Thị Thanh T quen biết vợ chồng tên L (không rõ lai lịch) là đối tượng chuyên mua bán ma túy. Khoảng tháng 10/2018, vợ chồng L hẹn gặp và yêu cầu T mua ma túy cho vợ chồng L với tiền công 5.000.000 đồng/bánh Heroin. Từ tháng 10 – 11/2018, T đã 02 lần mua ma túy cho vợ chồng L, cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất: Ngày 30/10/2018, vợ chồng L đến nhà T đưa trước số tiền 30.000.000 đồng và đưa số điện thoại 086529165 của người đàn ông bán ma túy (không rõ lai lịch) để T liên lạc mua 01 bánh heroin. Sau đó, người đàn ông này điện thoại hẹn T giao hàng tại khu vực đường đất đỏ, xã M3, huyện M4. T đưa 30.000.000 đồng cho người đàn ông nói trên và nhận 01 bánh heroin đem về nhà cất giấu. Ngày hôm sau, vợ chồng L đến nhà T nhận 01 bánh heroin và đưa tiếp 120.000.000 đồng để trả cho người đàn ông bán ma túy nói trên. Sau khi đưa tiền, người này đưa tiền công 5.000.000 đồng cho T.

- Lần thứ hai: Khoảng 12 giờ ngày 08/11/2018, vợ chồng L sử dụng số liên lạc 0965339251 điện thoại cho T hẹn gặp tại khu vực bến xe Quận 8 để đưa 400.000.000 đồng đi mua 06 bánh heroin, T sẽ được tiền công 30.000.000 đồng. Khoảng 16 giờ cùng ngày, T nhận được điện thoại từ người đàn ông bán ma túy lần trước, hẹn gặp tại khu vực đường đất đỏ, xã M3, huyện M4 để giao ma túy. T điều khiển xe gắn máy biển số 50Y1-292.80 đến điểm hẹn đưa người đàn ông nói trên 400.000.000 đồng và nhận 06 bánh heroin cất vào cốp xe sau đó lưu thông về hướng đường Võ Văn Bích, xã M3 đến khoảng 17 giờ 45 phút cùng ngày thì bị bắt quả tang.

Thu giữ trong cốp xe gắn máy, biển số 50Y1-292.80 do T đang điều khiển gồm: 01 túi nylon màu trắng bên trong chứa 06 khối hình chữ nhật chứa chất bột màu trắng được bọc bằng giấy nylon màu xanh đen, 02 gói nylon màu trắng được buộc dây thun màu vàng chứa chất bột màu trắng.

Ti bản kết luận giám định số 1823/KLGĐ-H ngày 13/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Chất bột trắng trong 06 khối hình hộp chữ nhật và 02 gói nylon màu trắng là ma túy ở thể rắn có tổng khối lượng 2.173,1752 gram loại heroin.

Ti Bản cáo trạng số 154/CTr-VKS-P1 ngày 18/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lê Thị Thanh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Đối với hai vợ chồng tên L và người đàn ông bán ma túy cho Lê Thị Thanh T, do T khai không rõ lai lịch, địa chỉ nên cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ để xử lý.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 213/2019/HS-ST ngày 25/6/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Lê Thị Thanh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Lê Thị Thanh T tử hình. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 08/11/2018, tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Buộc bị cáo T nộp phạt số tiền 10.000.000 đồng để tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo vụ án theo luật định.

Ngày 02/7/2019, bị cáo Lê Thị Thanh T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ti phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Lê Thị Thanh T giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo không mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo chỉ giữ giùm ma túy cho người khác. Bị cáo T trình bày bị bắt cách chỗ lấy hàng chỉ có 500m thì tại sao cơ quan điều tra không bắt bị cáo ngay khi lấy hàng, đồng thời số tiền mua 06 bánh ma túy hơn 1 tỷ đồng nhưng bị cáo chỉ cầm theo 400.000.000 đồng thì có mua được không? Bị cáo không mua bán ma túy nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tội danh của bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm: Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm bị cáo đều khai báo rất rõ ràng, thành khẩn là bị cáo đã 02 lần mua ma túy cho vợ chồng L, ngày 08/11/2018 bị cáo đã bị bắt quả tang cùng với 06 bánh heroin có trọng lượng 2.173,1752g trong cốp xe nên có căn cứ xác định Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điểm b Khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và xử phạt bị cáo mức án Tử hình là có cơ sở. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư Đỗ Hải B bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” vì nếu truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” thì cần phải xác định được người mua người bán. Bị cáo đã khai tại phiên tòa bị cáo chỉ cầm ma túy giùm cho người khác, bị cáo bị ép cung và khai theo sự hướng dẫn của Điều tra viên, luật sư chỉ có mặt để ký biên bản hợp thức hóa chứ không có mặt khi hỏi cung nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét. Ngoài ra đề nghị xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là bị cáo là mẹ đơn thân, có 03 con nhỏ hiện còn đang đi học.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Do cần tiền tiêu xài nên ngày 30/10/2018 Lê Thị Thanh T đã nhận lời đi mua ma tuý giúp vợ chồng L (không rõ lai lịch) với tiền công là 5.000.000 đồng/01 bánh heroin. Sau đó, đến ngày 08/11/2018, T đã nhận của Long 400.000.000 đồng để đi mua giúp Long 06 bánh heroin của một người đàn ông không rõ lai lịch, nếu mua được T sẽ được trả công là 30.000.000 đồng. Khoảng 17 giờ 45 phút cùng ngày, sau khi mua ma tuý về đang lưu thông trên đường Võ Văn Bích, xã M3, huyện M4 thì bị bắt quả tang cùng số ma tuý trên. Qua giám định xác định số lượng ma tuý mà T đã mua bán có trọng lượng 2.173,1752g loại Heroin.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại Điểm b Khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự 2015 là có căn cứ, đúng người đúng tội.

Ti phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T cho rằng mình không có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo chỉ giữ giùm cho người khác mà không hề biết đó là ma túy. Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị xử phạt bị cáo về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Hội đồng xét xử xét thấy: Trong suốt quá trình điều tra, truy tố bị cáo đều khai báo rất thống nhất việc bị cáo đã đi mua ma túy giúp cho vợ chồng người tên Long và được trả công 5.000.000 đồng/bánh heroin. Ngày 08/01/2019 khi bị cáo đi mua 06 bánh heroin giúp Long và bỏ vào cốp xe thì bị bắt quả tang. Lời khai nhận tội này của bị cáo là phù hợp với biên bản bắt người quả tang, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ. Bị cáo cho rằng mình bị ép cung, khai theo chỉ đạo của điều tra viên tuy nhiên bị cáo không đưa ra được chứng cứ chứng minh, ngoài ra tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã khai báo rất đầy đủ và phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra nên lời khai nại của bị cáo là không có cơ sở để chấp nhận.

[2] Về hình phạt: Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ, toàn diện tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ như bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có hoàn cảnh gia đình khó khăn để từ đó áp dụng điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo có trình bày tình tiết mới là gia đình bị cáo có công với Cách mạng nhưng không có tài liệu chứng minh. Do số ma tuý bị cáo mua bán là rất lớn, hành vi mua bán ma tuý là hành vi bị Nhà nước nghiêm cấm và trừng trị thật nghiêm khắc do tính chất nguy hiểm mà nó gây ra. Ma tuý đã đang và sẽ huỷ hoại cuộc sống của nhiều người và gây nguy hiểm cho xã hội. Tuy có các tình tiết giảm nhẹ như đã nêu trên nhưng vẫn cần phải cách ly bị cáo vĩnh viễn ra khỏi xã hội mới đủ sức răn đe và phòng ngừa chung. Do đó, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Về án phí: Do không chấp nhận kháng cáo của bị cáo nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

[4] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào Điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

1/ Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Thị Thanh T và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

2/ Áp dụng Điểm b Khoản 4, Khoản 5 Điều 251; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo Lê Thị Thanh T Tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 08/11/2018.

Tiếp tục tạm giam bị cáo theo quyết định của hội đồng xét xử để đảm bảo thi hành án.

Buộc bị cáo T nộp phạt số tiền 10.000.000 đồng để tịch thu sung quỹ Nhà nước.

3/ Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Lê Thị Thanh T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

4/ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5/ Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày tuyên án phúc thẩm, bị cáo T có quyền làm đơn xin Chủ tịch nước ân giảm án tử hình.

Bn án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 707/2019/HS-PT ngày 19/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:707/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về