Bản án 704/2017/HSPT ngày 20/10/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 704/2017/HSPT NGÀY 20/10/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 10 năm 2017, tại Trụ sở tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 388/HSPT ngày 06 tháng 6 năm 2017 đối với các bị cáo Giàng A L, Giàng A S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” do có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2017/HSST ngày 28/04/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái.

* Các bị cáo bị kháng nghị:

1. Giàng A L, sinh năm 1979; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: bản Suối Lẹ, xã Chim V, huyện Bắc Y, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: Lớp 2/12; dân tộc: H’Mông; là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đã bị đình chỉ sinh hoạt đảng; con ông Giàng A T (đã chết) và bà Mùa Thị Dua; có vợ là Thào Thị Chu và có 3 con, con lớn nhất sinh năm 2000, con nhỏ nhất sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/9/2016; có mặt.

2. Giàng A S, sinh năm 1975; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: bản Suối Lẹ, xã Chim V, huyện Bắc Y, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: H’Mông; con ông Giàng A G (đã chết) và bà Chớ Thị BLa; có vợ là Thào Thị D và có 3 con, con lớn nhất sinh năm 1997, con nhỏ nhất sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/9/2016; có mặt.

* Người phiên dịch tiếng dân tộc H’Mông: Ông Giàng A Kh; trú tại: tổ 27, phường Yên M, thành phố Yên B, tỉnh Yên Bái; có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái và Bản án hình sự sơ thẩm của Toà án nhân dân tỉnh Yên Bái thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 14 giờ 15 phút ngày 21/9/2015, tại khu vực thôn Tà Chử, xã Bản C, huyện Trạm T1, tỉnh Yên Bái, Tổ công tác điều tra tội phạm về ma tuý Công an huyện Trạm T1 phát hiện Giàng A L và Giàng A S có biểu hiện nghi vấn mua bán ma tuý. Tiến hành kiểm tra đối với L và S, thu giữ trong túi quần bên trái L đang mặc 01 gói chất bột nén mầu trắng nghi hêrôin, ngoài ra còn thu giữ của L 01 giấy CMND, 02 giấy phép lái xe, 01 thẻ đảng viên, 02 điện thoại di động, 01 túi xách màu đen, 2.916.000 đồng, 01 xe mô tô và 01 đăng ký xe mô tô; thu giữ của S 02 giấy CMND, 01 giấy phép lái xe, 01 ví giả da, 01 điện thoại di động, 01 túi xách mầu đen, 01 túi vải thổ cẩm, 11.000.000 đồng, 01 xe mô tô và đăng ký xe mô tô.

Quá trình điều tra, Giàng A L và Giàng A S khai nhận: Tháng 5/2016 tại chợ Trạm T1, L và S có gặp và quen một người dân tộc H’Mông, người này giới thiệu tên là C1 nhà ở thôn Tà Chử, xã Bản C, huyện Trạm T1, L mời C1 vào quán ăn cơm ở gần chợ Trạm T1, trước khi ăn C1 hỏi L “có kiếm được ma túy sang bên này bán không”, L trả lời “hàng đó chưa tiếp xúc nhiều”. Sau đó hai bên cho nhau số điện thoại, thỉnh thoảng C1 gọi điện cho L hỏi có mua được hêrôin không. Ngày 02/9/2016 L nói với S về việc C1 hỏi mua ma túy và L nói với S xem ở đâu bán ma túy mua về đem sang Trạm T1 bán cho C1, S đồng ý. Ngày 20/9/2016, S hỏi L có phải C1 mua ma túy thật không, L gọi điện cho C1, C1 đồng ý mua. S gặp và vay của Thào A N 28.000.000 đồng nói là để đi mua trâu, sau khi có tiền L gọi điện cho C1 nói không biêt chỗ nào bán hêrôin tốt, C1 nói tý nữa sẽ có người gọi điện cho thì L trực tiếp nói với họ. Một lúc sau có người gọi điện đến máy của L hỏi có phải cần mua ma túy không rồi hai bên hẹn gặp nhau ở cầu Tà Làng xã Tú N1, huyện Yên Ch, tỉnh Sơn La để mua bán ma túy. L đi xe máy BKS 26F1-8729 cùng S đến khu vực cầu Tà Làng, xã Tú Lang, huyện Yên Ch, tỉnh Sơn La, gặp một người dân tộc H’Mông, người này hỏi L có phải người mua hêrôin không, L nói đúng và hỏi giá bán thế nào, người này nói giá 16.000.000 đông/cây. Sau khi thống nhất giá cả L bảo S đưa cho người đàn ông 16.000.000 đồng, người đàn ông này bảo L và S đứng chờ ở đấy để đi lấy ma túy, do trời tối nên L và S thuê nhà trọ nghỉ gần cầu Tà Làng. Đến khoảng 5 giờ ngày 21/9/2016, L nhận được điện thoại của người đàn ông bán ma túy và hẹn ra ven đường để nhận hêrôin, L và S ra đường cách chỗ nghỉ trọ khoảng 1 km gặp người bán hêrôin, người đàn ông này nói hàng đắt và bảo L trả thêm 1.000.000 đồng, L đưa cho người đàn ông này 1.000.000 đồng rồi nhận gói hêrôin sau đó L và S đi về. Sau khi mua được ma túy thì L gọi điện cho C1 và nói mang ma túy sang cho C1, C1 đồng ý. L và S mỗi người đi một xe mang ma túy sang cho C1, khi đến thôn Tà Chử, xã Bản C, huyện Trạm T1 thì bị Công an huyện Trạm T1 phát hiện bắt giữ.

Tại Kết luận giám định số 193/KLGĐ ngày 23/9/2016 và số 197/GĐMT ngày 28/9/2016 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Yên Bái kết luận:

- Số tiền 2.916.000 đồng thu giữ của Giàng A L và số tiền 11.000.000 đồng thu giữ của Giàng A S gửi giám định đều là tiền do Ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành.

- Chất bột nén mầu trắng thu giữ của Giàng A L có tổng trọng lượng là 36,39 gam, 0,4 gam trích từ 36,39 gam chất bột nén mầu trắng giám định có chất ma túy, loại hêrôin. Hêrôin nằm trong danh mục I, STT: 20, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.

Tại Kết luận giám định số 117/C54(TT2) ngày 12/4/2017 của Viện khoa học hình sự - Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an kết luận: hàm lượng hêrôin trong mẫu gửi giám định là 26,5%.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2017/HSST ngày 28/4/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái đã tuyên bố các bị cáo Giàng A L và Giàng A S phạm tội “Mua bán trái phép chát ma túy”.

Áp dụng điểm h khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự;

- Xử phạt Giàng A L 09 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/9/2016.

- Xử phạt Giàng A S 08 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/9/2016.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 12/5/2015, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái có Quyết định kháng nghị đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tăng hình phạt đối với các bị cáo Giàng A L, Giàng A S.

Tại phiên tòa hôm phúc thẩm,

Các bị cáo Giàng A L, Giàng A S khai nhận hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa giữ nguyên nội dung kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái, sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét: Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận tội, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ có đủ cơ sở kết luận cấp sơ thẩm đã xử phạt các bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đúng người, đúng tội, không oan. Nhưng xét thấy các bị cáo có hành vi mua bán trái phép chất ma túy với trọng lượng 36,6 gram hêrôin nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đã giám định lại hàm lượng và căn cứ vào kết quả giám định lại để xử các bị cáo theo khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự là không đúng, do đó đề nghị chấp nhận kháng nghị, xử tăng hình phạt đối với các bị cáo theo khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Giàng A L, Giang A S thừa nhận hành mua bán trái phép chất ma túy, lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết và xét xử các bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với trọng lượng tinh chất hêrôin là 9,643 gram và áp dụng khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của các bị cáo đã gây mất trật tự trị an xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, tệ nạn ma túy còn là nguyên nhân tiềm ẩn gây ra nhiều loại tội phạm khác, gây ảnh hưởng xấu tới sự phát triển của xã hội, Do đó, cần có hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo thì mới có tác dụng giáo dục cải tạo các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung như bản án sơ thẩm đã tuyên là phù hợp.

Tại cấp phúc thẩm, các bị cáo không xuất trình tiết tiết gì mới, Hội đồng xét xử thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào hàm lượng ma túy tinh chất và xử các bị cáo với mức án như vậy là có căn cứ, không có căn cứ để chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái cũng như lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa nên giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 248 của Bộ luật Tố tụng hình sự

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 17/2017/HSST ngày 28/4/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái.

Tuyên bố: Các bị cáo Giàng A L, Giàng A S phạm tội “Mua bán trái phép chát ma túy”.

Áp dụng điểm h khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; xử phạt:

- Bị cáo Giàng A L 09 (chín) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/9/2016.

- Bị cáo Giàng A S 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/9/2016.

Về án phí: Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 704/2017/HSPT ngày 20/10/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:704/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về