Bản án 70/2021/HS-ST ngày 28/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ML, TỈNH SL

BẢN ÁN 70/2021/HS-ST NGÀY 28/06/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh SL xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 73/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2021/QĐXXST- HS ngày 17 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

QTB, sinh ngày 01 tháng 12 năm 1973, tại MB, ML, SL; Nơi ĐKHKTT: TK2, xã MB, huyện ML, tỉnh SL; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: Xóa mù chữ; dân tộc: Thái; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Quàng Văn P và con bà Cà Thị Đ; có chồng là Lê Văn T, sinh năm 1978; có bốn con lớn sinh 1992, nhỏ sinh 2013; Tiền án, tiền sự, nhân thân: Tại bản án số 40/2003/HSST ngày 06/10/2003 của Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh SL đã xử phạt 36 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; tại bản án số 47/2009/HSST ngày 20/7/2009 của Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh SL đã xử phạt 52 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; tại bản án số 71/2013/HSST ngày 16/8/2013 của Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh SL đã xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/01/2021; Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người làm chứng:

LVV, sinh năm 1997, địa chỉ: Bản S, xã MB, huyện ML, tỉnh SL. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo QTB bị Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào hồi 08 giờ 30 phút, ngày 26/01/2021, tại khu vực đường TK2, xã MB, huyện ML, tỉnh SL. Công an phát hiện và bắt quả tang LVV, sinh năm 1997, địa chỉ: Bản S, xã MB, huyện ML, tỉnh SL đã có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ:

01 gói được gói bên ngoài bằng giấy nilon màu trắng, bên trong chứa cục bột màu trắng, thu giữ do LVV tự giác lấy trong túi quần bên phải giao nộp, khai là Heroine để sử dụng vừa mua được của QTB, sinh ngày 01 tháng 12 năm 1973, tại TK2, xã MB, huyện ML, tỉnh SL với số tiền 100.000, đồng;

Số tiền 100.000, đồng gồm: Một tờ 50.000, đồng; hai tờ 20.000, đồng; một tờ 10.000, đồng thu giữ do QTB lấy trong túi quần bên phải đang mặc giao nộp, khai nhận là tiền vừa bán ma túy cho LVV mà có.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của QTB thu giữ:

02 gói được gói bằng giấy nilon màu xanh, 01 gói được gói bằng giấy nilon màu trắng bên trong đều chứa cục bột màu trắng, QTB khai là Heroine thu giữ trong túi áo khoác được cất trong tủ quần áo;

01 gói được gói bằng giấy nilon màu hồng, bên trong chứa 05 gói gồm: 04 gói được gói bằng giấy nilon màu hồng bên trong đều chứa cục bột màu trắng QTB khai là Heroine; 01 gói được gói bằng giấy nilon màu hồng bên trong chứa cục bột màu hồng, QTB khai là hồng phiến, thu giữ trong lớp vỏ giường mát xa trong nhà.

QTB khai số ma túy trên cất giữ để bán kiếm lời.

Ngày 27/01/2021 cơ quan Công an đã thành lập hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định, kết quả:

Vật chứng khi bắt quả tang:

01 gói được gói bên ngoài bằng giấy nilon màu trắng, bên trong chứa cục bột màu trắng, thu giữ do LVV tự giác lấy trong túi quần bên phải giao nộp có khối lượng 0,025 gam, lấy hết làm mẫu gửi giám định ký hiệu BV;

Vật chứng khi khám xét khẩn cấp thu giữ:

01 gói được gói bằng giấy nilon màu xanh, bên trong chứa cục bột màu trắng có khối lượng 0,31 gam lấy 0,06 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu B1;

01 gói được gói bằng giấy nilon màu xanh, bên trong chứa cục bột màu trắng có khối lượng 0,29 gam lấy 0,03 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu B2;

01 gói được gói bằng giấy nilon màu trắng bên trong đều chứa cục bột màu trắng có khối lượng 0,31 gam lấy 0,04 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu B3;

04 gói được gói bằng giấy nilon màu hồng bên trong đều chứa cục bột màu trắng QTB khai là Heroine:

Khi lượng gói thứ nhất là 0,07 gam lấy hết làm mẫu gửi giám định ký hiệu B4; B5; B6; B7;

Khối lượng gói thứ hai là 0,08 gam lấy hết làm mẫu gửi giám định ký hiệu Khối lượng gói thứ ba là 0,05 gam lấy hết làm mẫu gửi giám định ký hiệu Khối lượng gói thứ tư là 0,09 gam lấy hết làm mẫu gửi giám định ký hiệu 01 gói được gói bằng giấy nilon màu hồng bên trong chứa cục bột màu hồng, QTB khai là hồng phiến có khối lượng 1,54 gam, lấy 0,32 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu B8;

Công an huyện ML, tỉnh SL Quyết định trưng cầu giám định chất ma túy, loại ma túy.

Tại Kết luận giám định số: 421/KLMT ngày 29/01/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh SL. Kết luận: Mẫu ký hiệu BV, B1 đến B7 là chất ma túy, loại Heroine, tổng khối lượng mẫu giám định là 0,445 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 1,225 gam Heroine. Mẫu ký hiệu B8 là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng mẫu giám định là 0,32 gam, khối lượng ma túy thu giữ là 1,54 gam Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo QTB không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Quá trình điều tra QTB, LVV khai nhận: Khoảng 08 giờ 20 phút ngày 26/01/2021, LVV đến nhà QTB hỏi mua Heroine, LVV đưa cho QTB 100.000, đồng sau khi nhận tiền QTB lấy 01 gói được gói bên ngoài bằng giấy nilon màu trắng đưa cho LVV, sau khi nhận ma túy đi về. Đến hồi 08 giờ 30 phút cùng ngày Công an phát hiện và bắt quả tang cùng vật chứng.

Về nguồn gốc số Heroine và Methamphetamine QTB khai mua của hai vợ chồng dân tộc thái không biết tên, địa chỉ vào khoảng 07 giờ sáng ngày 26/01/2021, sau khi mua được đã cất giấu để bán, qua xác minh không có chứng cứ nào khác để xác định lời khai của QTB.

Đối với LVV đã mua ma túy của QTB để sử dụng, số Heroine thu giữ có khối lượng 0,025 gam. Do đó không đủ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với LVV cơ quan Công an đã ra quyết định sử phạt vi phạm hành chính.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo QTB đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Bản cáo trạng số: 42/CT-VKSML ngày 27 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố bị cáo QTB về tội tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo QTB phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Căn cứ điểm q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt QTB từ 08 năm 06 tháng đến 09 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo không có tài sản.

Về vật chứng: Căn cứ điểm b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: Số tiền 100.000, đồng do mua bán ma túy mà có.

Tịch thu tiêu huỷ:

03 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh nilon màu trắng; 05 mảnh giấy nilon màu hồng; 02 mảnh giấy nilon màu xanh; 0,78 gam Heroine; 1,22 gam Methamphetamine. (Đều đã được niêm phong);

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra, tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên Quyết định truy tố. Bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện ML, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện ML, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên toà bị cáo QTB thừa nhận: Ngày 26/01/2021 tại nhà QTB đã thực hiện hành vi bán trái phép 01 gói Heroine cho LVV, sinh năm 1997, địa chỉ: Bản S, xã MB, huyện ML, tỉnh SL để lấy 100.000, đồng. QTB đã thực hiện hành vi cất giữ trái phép Heroine có khối lượng 1,225 gam và số Methamphetamine tổng khối lượng 1,54 gam để bán thì bị bắt quả tang.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ trong vụ án; Thông báo kết quả giám định, lời khai của người mua ma túy.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận:

Bị cáo QTB đã thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Do bị cáo có tiền án: Tại bản án số 40/2003/HSST ngày 06/10/2003 của Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh SL đã xử phạt 36 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; tại bản án số 47/2009/HSST ngày 20/7/2009 của Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh SL đã xử phạt 52 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; tại bản án số 71/2013/HSST ngày 16/8/2013 của Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh SL đã xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xóa án, được xác định đã tái phạm nguy hiểm, nay tiếp tục phạm tội là tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 53 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Là tình tiết định khung tăng nặng theo quy định tại điểm q “Tái phạm nguy hiểm” khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Bị cáo không có tài sản nên không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

Hội đồng xét xử xét thấy: Tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng nên cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm giáo dục bị cáo.

[3]. Về nhân thân: Bị cáo đã nhiều lần bị kết án, được xác định nhân thân không tốt có liên quan đến hoạt động ma túy.

Tại phiên tòa bị cáo thật thà khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[4]. Về vật chứng: Căn cứ điểm b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: Số tiền 100.000, đồng do mua bán ma túy mà có.

Tịch thu tiêu huỷ:

03 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh nilon màu trắng; 05 mảnh giấy nilon màu hồng; 02 mảnh giấy nilon màu xanh; 0,78 gam Heroine; 1,22 gam Methamphetamine. (Đều đã được niêm phong);

Về nguồn gốc số Heroine và Methamphetamine QTB khai mua của hai vợ chồng dân tộc thái không biết tên, địa chỉ vào khoảng 07 giờ sáng ngày 26/01/2021, sau khi mua được đã cất giấu để bán, qua xác minh không có chứng cứ nào khác để xác định lời khai của QTB. Nên bị cáo phải chịu trách nhiệm về số ma túy.

Đối với LVV đã mua ma túy của QTB để sử dụng, số Heroine thu giữ có khối lượng 0,025 gam. Do đó không đủ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với LVV cơ quan Công an đã ra quyết định sử phạt vi phạm hành chính là thỏa đáng.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm q “Tái phạm nguy hiểm” khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm b khoản 2 Điều 53 của Bộ luật Hình sự năm 2015:

Tuyên bố bị cáo QTB phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo QTB 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 26/01/2021.

Không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: Số tiền 100.000, đồng (một trăm nghìn đồng) do mua bán ma túy mà có.

Tịch thu tiêu huỷ:

03 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh nilon màu trắng; 05 mảnh giấy nilon màu hồng; 02 mảnh giấy nilon màu xanh; 0,78 gam Heroine; 1,22 gam Methamphetamine. (Đều đã được niêm phong).

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện ML, tỉnh SL.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về Án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo QTB phải chịu 200.000, đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 28/6/2021. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2021/HS-ST ngày 28/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:70/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về