Bản án 70/2021/HS-ST ngày 28/06/2021 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 70/2021/HS-ST NGÀY 28/06/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 28 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên đã tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 75/2021/TLST-HS ngày 21 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn D (tên gọi khác: Không) sinh ngày 20/7/1968, tại Thanh Hóa.

Nơi cư trú: Số nhà X, tổ dân phố 2, phường T, thành phố P, tỉnh Điện Biên;

nghề nghiệp: Thợ xây; trình độ văn hóa: 3/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B (đã chết) và bà Nguyễn Thị H (đã chết); có vợ là Trần Thị S sinh năm 1973 và bị cáo có 02 người con, con lớn sinh năm 1995, con nhỏ sinh năm 2003; tiền án: Không, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa bị kết án và chưa bị xử lý vi phạm hành chính; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/01/2021 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Điện Biên cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn D: Ông Nguyễn Quang K - Luật sư, Văn phòng luật sư A1 thuộc Đoàn luật sư tỉnh Điện Biên (Có mặt).

- Bị hại: Trần Thị S, sinh năm 1973. Nơi cư trú: Số nhà X, Tổ dân phố 2, phường T, thành phố P, tỉnh Điện Biên (Có mặt).

- Người làm chứng: Ông Phạm Văn N - sinh năm 1962. Nơi cư trú: Số nhà B, Tổ dân phố 2, phường T, thành phố P, tỉnh Điện Biên (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Khong gần 07 giờ ngày 03/01/2021, Nguyễn Văn D đang ngủ tại gia đình thuộc số nhà X, tổ 2, phường T, thành phố P thì vợ là Trần Thị S gọi dậy để lát nền gian bếp. D dậy đi ra sân bếp thấy S đang ngồi đánh răng, D nghe thấy tiếng vợ, chồng anh H, chị T hàng xóm ở bên cạnh nói vọng sang là không cho nhà D lát nền bếp nữa, nghe thấy H can thiệp vào việc gia đình mình vậy mà S không nói gì trong khi D đang nghi ngờ S có quan hệ bất chính với H cho dù không có căn cứ. Mặt khác, tối ngày 02/01/2021, giữa D và S đã xảy ra mâu thuẫn vì S tự ý mua cát quá nhiều mà không hỏi ý kiến D. D bực tức liền đi vào trong phòng ngủ, lấy từ dưới gầm giường 01 chiếc búa đinh dài 30cm; đầu búa bằng kim loại được cố định với cán gỗ bằng một đinh vít, một đầu búa bằng để đóng đinh, một đầu có rãnh để nhổ đinh, kích thước (11,5 x 3 x 2,5)cm, mục đích nhằm đánh chết chị S. D cầm búa ở tay phải đi ra phía sau lưng S, cách khoảng 60cm không nói gì mà giơ luôn búa lên ngang đầu của mình rồi dùng lực của cả cánh tay đập một nhát theo chiều từ trên xuống dưới, từ sau ra trước phần đầu búa dùng để đóng đinh nhằm trúng vào đỉnh đầu của S, gây tổn thương ở vùng đỉnh chẩm 3%, dấu vết thương tích hình chữ Y để lại sẹo: Cạnh 1 kích thước 4,5cm x 0,5cm, cạnh 2 kích thước 2cm x 0,5cm; 01 vết tổn thương phần mềm ở vùng chẩm phải là 1%, để lại sẹo kích thước 0,2cm x 0,1cm. Ngay sau đó, D giơ búa lên đập nhát thứ hai cũng nhằm vào đỉnh đầu của S nhưng do S giơ bàn tay phải lên che đầu vì vậy búa đã đập trúng vào đốt 1 ngón 4 bàn tay phải gây tổn thương 1%, để lại sẹo kích thước 1,2cm x 0,1cm; Gãy đốt 1 ngón 5 bàn tay phải gây tổn thương 2% và 01 vết thương phần mềm ở mặt mu đốt 1, ngón 5 gây tổn thương 1%, để lại sẹo có kích thước: 2,2cm x 0,1cm. Do bị bất ngờ, choáng và đau, S quay mặt lại nhìn thấy D đang cầm búa, S vùng dậy đứng lên thì D vẫn tiếp tục giơ búa ngang tầm mặt, đập theo hướng từ phải sang trái, S dơ tay đỡ và giằng lấy búa rồi bỏ chạy ra ngoài đường kêu cứu, được hàng xóm đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Điện Biên, còn D khóa cổng lại ở trong nhà. Đến 08 giờ 50 phút ngày 03/01/2021, Công an thành phố P đã tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Văn D.

Bn kết luận giám định pháp y về thương tích số 61/TgT ngày 15/3/2021 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Điện Biên kết luận: Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể nên cho Trần Thị S tại thời điểm giám định là 8% (Tám phần trăm); Dấu vết thương tích để lại trên thân thể của Trần Thị S phù hợp với đặc điểm và cơ chế hình thành dấu vết thương tích do tác động ngoại lực của vật tày gây nên.

Bn kết luận giám định số: 2546/C09-TT3 ngày 27/4/2021, của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Trên chiếc búa gửi giám định có bám dính máu của Trần Thị S; Mẫu ghi chất dịch màu nâu thu tại hiện trường tại vị trí số 1 và vị trí số 2 gửi giám định đều là máu của Trần Thị S.

Bn kết luận giám định pháp y về vật gây thương tích số 118 ngày 29/4/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Điện Biên kết luận: Chiếc búa gửi giám định có thể gây nên các thương tích cho chị Trần Thị S và phù hợp với đặc điểm hình thành dấu vết thương tích do tác động ngoại lực của vật tày gây nên cho chị Trần Thị S như đã mô tả trong Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 61/TgT ngày 15/3/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Điện Biên.

Tại bản Cáo trạng số: 06/CT-VKS-P2 ngày 20/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên đã truy tố Nguyễn Văn D để xét xử về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n Khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa , đai diên Viên kiêm sat nhân dân tỉnh Điện Biên vẫn giữ nguyên quyêt đinh truy tô . Đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tôi “Giết người”. Áp dụng điểm n Khoan 1 Điêu 123 Bộ luật Hình sự; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điêu 51; Điều 38; Điều 57 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D với mức án từ 12 năm đến 13 năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình giải quyết vụ án bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại nên không đặt vấn đề xem xét giải quyết trong vụ án.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, để xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án, buộc bị cáo Nguyễn Văn D phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì về quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng và không tranh luận với luận tội của Kiểm sát viên. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa sơ thẩm: Bị hại bà Trần Thị S trình bày, bà là vợ của bị cáo nên đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và không yêu cầu giải quyết về phần bồi thường thiệt hại.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn D không có ý kiến tranh luận gì về tội danh, điều luật mà Viện kiểm sát đã truy tố, đồng thời không có khiếu nại gì về các quyết định hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng. Đề nghị HĐXX xem xét, bị cáo Nguyễn Văn D nhất thời phạm tội, bản thân bị cáo không có ý định tước đi sinh mạng của bị hại, sau khi xảy ra sự việc bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, bị hại cũng đề nghị giảm nhẹ hình phạt tù cho bị cáo nên đề nghị HĐXX xem xét áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa , bị cáo Nguyễn Văn D khai nhân toàn bộ hành vi p hạm tội như bản cáo trạng đã truy tố, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, hành vi phạm tội của bị cáo được thể hiện: Khoảng gần 07 giờ ngày 03/01/2021, Nguyễn Văn D đang ngủ tại gia đình thuộc số nhà X, tổ 2, phường T, thành phố P thì vợ là Trần Thị S gọi dậy để lát nền gian bếp. D dậy đi ra sân bếp thấy S đang ngồi đánh răng, D nghe thấy tiếng vợ, chồng anh H, chị T hàng xóm ở bên cạnh nói vọng sang là không cho nhà D lát nền bếp nữa, nghe thấy H can thiệp vào việc gia đình mình vậy mà S không nói gì trong khi D đang nghi ngờ S có quan hệ bất chính với H cho dù không có căn cứ. Mặt khác, tối ngày 02/01/2021, giữa D và S đã xảy ra mâu thuẫn vì S tự ý mua cát quá nhiều mà không hỏi ý kiến D. D bực tức liền đi vào trong phòng ngủ, lấy từ dưới gầm giường 01 chiếc búa đinh dài 30cm; đầu búa bằng kim loại được cố định với cán gỗ bằng một đinh vít, một đầu búa bằng để đóng đinh, một đầu có rãnh để nhổ đinh, kích thước (11,5 x 3 x 2,5)cm, mục đích nhằm đánh chết chị S. D cầm búa ở tay phải đi ra phía sau lưng S, cách khoảng 60cm không nói gì mà giơ luôn búa lên ngang đầu của mình rồi dùng lực của cả cánh tay đập một nhát theo chiều từ trên xuống dưới, từ sau ra trước phần đầu búa dùng để đóng đinh nhằm trúng vào đỉnh đầu của S, gây tổn thương ở vùng đỉnh chẩm 3%, dấu vết thương tích hình chữ Y để lại sẹo: Cạnh 1 kích thước 4,5cm x 0,5cm, cạnh 2 kích thước 2cm x 0,5cm; 01 vết tổn thương phần mềm ở vùng chẩm phải là 1%, để lại sẹo kích thước 0,2cm x 0,1cm. Ngay sau đó, D giơ búa lên đập nhát thứ hai cũng nhằm vào đỉnh đầu của S nhưng do S giơ bàn tay phải lên che đầu vì vậy búa đã đập trúng vào đốt 1 ngón 4 bàn tay phải gây tổn thương 1%, để lại sẹo kích thước 1,2cm x 0,1cm; Gãy đốt 1 ngón 5 bàn tay phải gây tổn thương 2% và 01 vết thương phần mềm ở mặt mu đốt 1, ngón 5 gây tổn thương 1%, để lại sẹo có kích thước: 2,2cm x 0,1cm. Do bị bất ngờ, choáng và đau, S quay mặt lại nhìn thấy D đang cầm búa, S vùng dậy đứng lên thì D vẫn tiếp tục giơ búa ngang tầm mặt, đập theo hướng từ phải sang trái, S dơ tay đỡ và giằng lấy búa rồi bỏ chạy ra ngoài đường kêu cứu, được hàng xóm đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Điện Biên, còn D khóa cổng lại ở trong nhà. Đến 08 giờ 50 phút ngày 03/01/2021, Công an thành phố P đã tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Văn D.

Lời khai của bị cáo, bị hại, người làm chứng phù hợp với kết luận giám định số 2546/C09-TT3 ngày 27/4/2021 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an, bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 61/TgT ngày 15 /3 /2021 và kết luận giám định pháp y về vật gây thương tích số 118 ngày 29/4/2021 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Điện Biên phù hợp với biên bản thực nghiệm điều tra, nhận dạng vật chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Do đó Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận hành vi đó của bị cáo Nguyễn Văn D đã phạm tội “Giết người” theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sống, sức khỏe của bị hại, làm mất trật tự an toàn xã hội, nên cần phải bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Nguyễn Văn D để xét xử tội “Giết người” theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật, bị cáo không bị oan sai.

Về tình tiết định khung hình phạt: Giữa bị cáo và bị hại là vợ chồng, hai người không có mâu thuẫn gì quá lớn và không có nguyên cớ nhưng bị cáo đã coi thường tính mạng của bị hại đã dùng búa đinh là hung khi nguy hiểm đánh vào đầu của bị hại.

Hành vi đó của bị cáo đã vi phạm tình tiết định khung quy định tại điểm n Khoản 1 Điêu 123 Bộ luật Hình sự.

[2]. Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị hại cũng đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được áp dụng điểm s khoản1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Ngoài lần phạm tội này bị cáo chưa bị xét xử về tội danh nào khác chưa bị xử lý hành chính, mặt khác hậu quả chết người chưa xảy ra do bị hại bỏ chạy và được đưa đi cấp cứu kịp thời và chỉ bị thương tích 8% sức khỏe nên bị cáo được xem xét áp dụng Điều 57 Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt. Tuy nhiên vẫn cần xử phạt tù có thời hạn đối với bị cáo, mức hình phạt đối với bị cáo mà Kiểm sát viên đề nghị, Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, theo quy định tại khoản 3 Điều 123 Bộ luật Hình sự. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm. Do nghề nghiệp của bị cáo là thợ xây nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng khoản 3 Điều 123 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, Bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên HĐXX không đặt vấn đề xem xét giải quyết trong vụ án này.

[5]. Về hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố P; Công an tinh Điên Biên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố P; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biện; Điều tra viên; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng. Do đo, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[6]. Về vật chứng vụ án: Căn cứ theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a, c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Đối với 01 (Một) chiếc búa đinh có cán bằng gỗ là phương tiên phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 (Một) bì màu vàng có dán kín mặt trước có ghi “Mẫu hoàn lại sau giám định” cần tịch thu tiêu hủy .

[7]. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Văn D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm n Khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Giết người”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm n Khoản 1 Điều 123, điểm s Khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 57 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ (ngày 03/01/2021).

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

* Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) chiếc búa đinh có cán bằng gỗ kích thước 30cm x 2cm x 4 cm, đầu búa bằng kim loại có kích thước 11,5cm x 3cm x 2,5cm đầu búa được gắn với cán gỗ bằng một đinh vít bằng kim loại được niêm phong bằng cách lấy 01 tờ giấy trắng dán quan cán búa, trên mép dán có chữ ký, họ tên của Bùi Mạnh U, Lò Thị Kim O, Trần Thị Giang C và 02 hình dấu tròn đỏ của Trung tâm pháp y tỉnh Điện Biên.

- 01 (một) bì màu vàng dán kín mặt trước có ghi “Mẫu hoàn lại sau giám định kèm theo Kết luận giám định số 2546/C09-TT3 ngày 27/4/2021 của Viện khoa học hình sự - Bộ công an”, mặt sau trên mép dán có chữ ký họ tên giáp lai của Bùi Mạnh U, Lò Thị Kim O, Trần Thị Giang C và 02 hình dấu tròn đỏ của Trung tâm pháp y tỉnh Điện Biên.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Điện Biên và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên ngày 20/5/2021).

4. Về án phí:Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Văn D phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5.Về quyền kháng cáo đối với bản án: Căn cứ các Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 28/6/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

324
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2021/HS-ST ngày 28/06/2021 về tội giết người

Số hiệu:70/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về