Bản án 70/2021/HS-ST ngày 08/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 70/2021/HS-ST NGÀY 08/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 6 năm 2021, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 63/2021/TLST-HS ngày 05/5/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2021/QĐXXST-HS ngày 26/5/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Xuân Ch; giới tính: Nam; sinh năm 1965; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: xóm C, xã Th, thị xã Ph, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 07/10; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Lê Văn S (đã chết) và bà Đào Thị L; Vợ: Bùi Thị M (đã ly hôn), vợ chồng có 01 con chung sinh năm 2003; Tiền án: không.

Tiền sự: Ngày 27/7/2018 Tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đã chấp hành xong ngày 06/8/2020.

Nhân thân: - Tại Bản án số 05/1993/HSST ngày 29/02/1993 Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Thái xử phạt 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân”.

- Tại Bản án số 16/1997/HSST ngày 28/3/1997 Tòa án nhân dân huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 18 tháng tù về tội “Tổ chức dùng chất ma túy”.

- Tại Bản án số 1731/1999/HSPT ngày 22/9/1999 Tòa án nhân dân Tối Cao tại Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”.

- Tại Bản án số 488/2003/HSST ngày 20/6/2003 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 07 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/01/2021 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên; có mặt tại phiên tòa.

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Người chứng kiến: 1.Anh Hoàng Đức H, sinh năm 1981(Vắng mặt) Địa chỉ: xóm T, xã X, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.

2.Anh Dương Quang Ph, sinh năm 1991(Vắng mặt) Địa chỉ: xóm Đ, xã X, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 45 phút ngày 25/01/2021, tổ công tác của Công an xã X đang làm nhiệm vụ tại khu vực đường Quốc lộ 37, thuộc xóm K, xã X, huyện Phú Bình thì phát hiện bắt quả tang Lê Xuân Ch, sinh năm 1965 trú tại: xóm C, xã Th, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Qua kiểm tra Ch đã tự giác lấy ra từ túi áo khoác ngoài bên trái đang mặc 01 gói nhỏ gói ngoài bằng giấy vở học sinh, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng (Ch khai là ma túy Heroine). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định.

Tại Bản kết luận giám định số 379/KL-KTHS ngày 03/02/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Số chất bột dạng cục màu trắng thu giữ của Lê Xuân Ch là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,162gam.

Tại Cơ quan điều tra Lê Xuân Ch khai: Ch là đối tượng nghiện ma túy nên thường phải đi mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 24/01/2021, Ch đi một mình đến khu vực xóm K, xã Tr, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên để tìm mua ma túy, sử dụng cho bản thân. Tại đây, Ch gặp một người phụ nữ, không rõ tên, tuổi, lai lịch địa chỉ cụ thể và mua 01 gói ma túy của người phụ nữ này với giá 70.000đ. Ch cất ma túy vừa mua được trong túi áo khoác bên trái đang mặc rồi đi về nhà. Đến 9h ngày 25/01/2021 Ch đi sang Phú Bình tìm việc làm, khi đi đến khu vực đường Quốc lộ 37, thuộc địa phận xóm K, xã X, huyện Phú Bình thì bị tổ công tác của Công an xã X kiểm tra bắt giữ, thu giữ vật chứng như nêu trên.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Xuân Ch khai nhận rõ hành vi phạm tội như lời khai tại cơ quan điều tra và bản cáo trạng mô tả. Bị cáo thừa nhận việc truy tố, xét xử là đúng người, đúng tội, không oan.

Tại bản Cáo trạng số 74/CT-VKSPB ngày 29/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình truy tố Lê Xuân Ch về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình giữ nguyên bản Cáo trạng số 74/CT-VKSPB ngày 29/4/2021, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Xuân Ch phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự: xử phạt Lê Xuân Ch từ 30 đến 36 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bi cáo; Về vật chứng: áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy vật chứng là ma túy còn lại sau giám định. Về án phí: bị cáo phải chịu án phí và được quyền kháng cáo theo quy định.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Trong lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Phú Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký, Kiểm sát viên tiến hành tố tụng chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, vật chứng thu được, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Khoảng 11h00 phút ngày 25/01/2021, tại khu vực đường Quốc lộ 37, thuộc địa phận xóm K, xã X, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên, bị cáo Ch đã có hành vi tàng trữ 0,162gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Bản cáo trạng số 74/CT-VKSPB ngày 29/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình truy tố Lê Xuân Ch theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, ảnh hưởng đến chính sức khỏe của bị cáo, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương, là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của mình.

Bị cáo không có tiền án, nhưng có 01 tiền sự và có nhân thân xấu, bị cáo đã từng bị xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho mình để rèn luyện, tu dưỡng trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, mà bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải. Vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự [4]Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

- Về hình phạt bổ sung: bị cáo là người nghiện ma túy, qua xác minh lời khai tại phiên tòa không có tài sản, không có thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[5]Về biện pháp ngăn chặn: Cần áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Quyết định tạm giam bị cáo Lê Xuân Ch 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

[6]Về vật chứng: cần tịch thu, tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo còn lại sau giám định.

[7]Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

[8]Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[9] Các vấn đề khác: Trong vụ án này còn có người đàn phụ nữ đã bán ma túy cho bị cáo tại khu vực xóm K, xã Tr, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, do bị cáo Ch không xác định được nhân thân, lai lịch, địa chỉ cụ thể, nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để mở rộng điều tra vụ án.

Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự Tuyên bố bị cáo Lê Xuân Ch phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Xử phạt bị cáo Lê Xuân Ch 03 (Ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 25/01/2021.

2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

3.Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo Lê Xuân Ch 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án;

4.Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu A1 bên trong có chứa 0,143 gam ma túy Heroine được hoàn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu A1.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/5/2021 giữa Công an huyện Phú Bình và Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Bình)

5.Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí. Buộc bi cao Lê Xuân Ch phải nôp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2021/HS-ST ngày 08/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:70/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Bình - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về