Bản án 70/2020/HS-ST ngày 28/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 70/2020/HS-ST NGÀY 28/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28/7/2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 64/2020/TLST-HS, ngày 03 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2020/QĐXXST-HS, ngày 13 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Vi Văn G, sinh ngày 06 tháng 6 năm 1980 tại Sơn Dương – Tuyên Quang.

Nơi cư trú: Thôn N, xã Đ, huyện S, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao đông tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 3/12; dân tộc: Cao lan; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vi Ngọc L, sinh năm 1963, con bà Vương Thị T, sinh năm 1960; vợ Vương Thị P, sinh năm 1982, bị cáo có ba con, con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2012; Bị cáo có 4 anh em, bị cáo là con thứ nhất; tiền sự: Không:

Tiền án: 02 tiền án:

Bản án số 62/2016/HSST ngày 29/9/2016 Tòa án nhân dân huyên Sơn Dương xử phạt Vi Văn G 09 tháng tù về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”. Chấp hành xong hình phạt ngày 17/5/2017.

Bản án số 62/2018/HSST ngày 18/10/2018 Tòa án nhân dân huyên Sơn Dương xử phạt Vi Văn G 01 năm 09 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (bản án đã xác định bị cáo tái phạm). Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/3/2020.

Nhân thân: Bản án số 76/2008/HSST ngày 18/12/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xử phạt Vi Văn G 09 tháng tù về tội Đánh bạc Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/6/2020 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Cáo trạng của Viện kiểm sát và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 21 giờ 40 phút ngày 03/6/2020 tại khu vực đường liên thôn thuộc thôn Quý Nhân, xã Đồng Quý, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, tổ công tác đội Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Vi Văn G trú tại thôn Quý Nhân, xã Đồng Quý, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ tại túi quần bên trái phía trước đang mặc của G 01 gói nhỏ được gói bằng giấy bạc màu vàng, bên trong có chứa chất bột màu trắng ngà (G khai nhận là Heroine mua về để sử dụng).

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với Vi Văn G, kết quả: (+) Dương tính.

Tại kết luận giám định số: 462/GĐKTHS ngày 06/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang kết luận: Số chất bột vón cục màu trắng ngà thu giữ của Vi Văn G gửi giám định là chất ma túy loại Heroine khối lượng 0,140gam (không phẩy một bốn mươi gam).

Quá trình điều tra Vi Văn G khai nhận: Bản thân là người nghiện ma túy. Khoảng 07 giờ ngày 03/6/2020, G một mình điều khiển xe mô tô sang khu vực cầu Đoan Hùng thuộc huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ, mục đích tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại đây G gặp mua của 01 người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ 01 gói heroine gói bằng giấy bạc màu vàng với giá 400.000đ. Sau đó G đi về nhà lấy một ít ra sử dụng bằng hình thức tiêm chích vào cơ thể, số còn lại G gói lại như cũ và cất vào túi phía trước quần bên trái phía trước đang mặc.

Khoảng 21 giờ cùng ngày, G từ nhà đi đến khu vực đường liên thôn Quý Nhân, xã Đồng Quý để tìm chỗ sử dụng ma túy thì bị Tổ công tác Công an huyện Sơn Dương phát hiện, kiểm tra lập biên bản bắt quả tang đối với G.

Cáo trạng số: 65/CT-VKSSD, ngày 02/7/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương đã truy tố Vi Văn G về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố: Bị cáo Vi Văn G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” - Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Đề nghị: Xử phạt Vi Văn G từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 04/6/2020 Do bị cáo không có tài sản riêng gì có giá trị nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị HĐXX xử lý vật chứng, buộc bị cáo phải chịu tiền án phí và tuyên quyền kháng cáo của bị cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra; tại phiên tòa và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 21 giờ 40 phút ngày 03/6/2020, tại thôn Quý Nhân, xã Đồng Quý, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Vi Văn G đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,140 gam heroine, mục đích để sử dụng.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang truy tố bị cáo Vi Văn G về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh trật tự tại địa phương, trực tiếp xâm phạm vào chính sách quản lý về chất ma túy của nhà nước. Bị cáo đã có 02 tiền án Bản án số 62/2016/HSST ngày 29/9/2016 Tòa án nhân dân huyên Sơn Dương xử phạt 09 tháng tù về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”; Bản án số 62/2018/HSST ngày 18/10/2018 Tòa án nhân dân huyên Sơn Dương xử phạt 01 năm 09 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (bản án đã xác định bị cáo tái phạm). Lần phạm tội này của bị cáo là tái phạm nguy hiểm, là yếu tố định khung tăng nặng hình phạt đối với bị cáo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Do đó, cần buộc bị cáo phải chịu mức án nghiêm khắc là cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đường lối xử lý đối với bị cáo:

- Về tình tiết tăng nặng: Không có.

- Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt cần áp dụng cho bị cáo.

Xét thấy bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy, không có tài sản lớn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

01 bì niêm phong có chữ ký giáp lai và dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có chứa heroine là tang vật của vụ án cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy của Vi Văn G, Công an huyện Sơn Dương đã xử phạt vi phạm hành chính Quyết định số 15/QĐ ngày 10/6/2020, hình phạt tiền mức phạt 750.000đ.

Đối với người đàn ông ở huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ bán heroin cho Vi Văn G do không xác định được tên, tên và địa chỉ nên không có căn cứ điều tra, xử lý.

[6] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; các Điều 106, 136, 331 và 333 Bộ Luật Tố tụng hình sự:

Căn cứ: điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.

- Tuyên bố: Vi Văn G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

1. Về hình phạt: Xử phạt Vi Văn G 05 (năm) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 04/6/2020.

2. Về vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong có chữ ký giáp lai của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có chứa heroine.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/7/2020 giữa Công an huyện Sơn Dương và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Dương).

3. Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2020/HS-ST ngày 28/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:70/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về